16/11/2021
Tạp chí International Living của Úc đã bình chọn Việt Nam là một trong ba quốc gia hàng đầu Đông Nam Á được khách Úc ưa chuộng vì có dịch vụ nha khoa chất lượng cao với chi phí thấp. Cụ thể, dịch vụ làm cầu cho răng tại Úc có giá khoảng 4.500 đô la Úc, trong khi đó ở Việt Nam chỉ giao động từ 500-800 đô la Úc. Mức chi phí cho dịch vụ làm răng sứ tại Việt Nam rẻ hơn 1/3 nếu so sánh với Mỹ và Úc. Tạp chí Fosbes cho biết chi phí thực hiên một ca IVF tại Việt Nam chỉ bằng 1/3 so với các quốc gia khác tại Đông Nam Á, còn nếu so với chi phí trung bình 20.000 đô la thực hiện IFV tại Mỹ thì mức giá ở Việt Nam chỉ bằng ¼.
Không chỉ cạnh tranh về giá cả, thời gian cũng là một yếu tố khiến cho du lịch y tế tại các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam chiếm ưu thế. Trong khi tại Mỹ, Úc hay các quốc gia Châu Âu, để thực hiện việc làm răng sứ phải mất từ 2-3 tháng thì tại Thái Lan hay Việt Nam, dịch vụ này sẽ được hoàn thiện chỉ trong 2 tuần.
Mặc dù đã được du khách quốc tế nhìn nhận và lựa chọn nhưng với danh sách dài các bệnh viện lớn cùng đội ngũ bác sĩ có tay nghề cao ngang tầm thế giới như: Bạch Mai, Viện E, Răng hàm mặt Trung Ương, Y học cổ truyển Trung ương, Hữu Nghị, Bưu điện, Xanh-pôn tại Hà Nội. Bệnh viện Chợ Rẫy, viện 115, Đại học Y dược, Từ Dũ tại thành phố Hồ Chí Minh, chưa kể đến nhiều bệnh viện tư nhân có trang thiết bị hiện đại và dịch vụ cao cấp như Hồng Ngọc, Thu Cúc, An Sinh, Hoàn Mỹ, Vạn Hạnh, Việt Pháp…thì thực tế phải nhìn nhận rằng thị trường du lịch y tế tại Việt Nam còn quá khiêm tốn so với tiềm năng.
Có rất nhiều rào cản khiến du lịch y tế tại Việt Nam chưa thể phát triển, trong đó phải kể đến như: chưa có chính sách khuyến khích phát triển, chưa có sự phối kết hợp giữa ngành y tế và ngành du lịch. Các bệnh viện cũng chưa có sự chuẩn bị về nguồn nhân lực phục vụ thị trường khách này, bởi không như khách nội địa, để phục vụ khách quốc tế thì bác sĩ, y tá cũng cần thông thạo ngoại ngữ. Khó khăn lớn nhất chính là việc để thu hút khách các bệnh viện cần phải có chứng nhận chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Tất cả các bệnh viện uy tín được khách quốc tế lựa chọn tại khu vực Đông Nam Á đều có chứng nhận của Ủy ban Quốc tế (Joint Commission International – JCI). Được JCI công nhận đồng nghĩa với việc có đủ điều kiện cung cấp dịch vụ vụ du lịch y tế đạt tiêu chuẩn cả về chuyên môn và trang thiết bị. Thái Lan là quốc gia có số bệnh viện được JCI công nhận nhiều nhất tại Đông Nam Á với 67 bệnh viện, Indonesia 31 bệnh viện, ít nhất là Myanmar chỉ có duy nhất 01 bệnh viện được công nhận. Việt Nam có 4 bệnh viện được JCI công nhận, một con số còn quá khiêm tốn so với số lượng các bệnh viện tại Việt Nam hiện nay.
Theo cáo của Bộ Y tế, năm 2018 mặc dù thu về hơn 1 tỷ đô từ bệnh nhân nước ngoài, song Việt Nam lại “chảy máu” hơn 2 tỷ đô với 60.000 lượt người Việt ra nước ngoài khám chữa bệnh. Bên cạnh đó, một thị trường khách tiềm năng không thể không nhắc đến chính là hơn 4 triệu kiều bào Việt Nam ở nước ngoài. Số liệu này đủ để ngành y tế và ngành du lịch cần sớm có sự phối hợp, xây dựng các chương trình hợp tác không chỉ thu hút khách quốc tế mà còn khai thác thị trường lớn khách nội địa và bà con kiều bào.
Trong bối cảnh cả thế giới đang đối mặt với vô vàn khó khăn bởi đại dịch Covid 19, Việt Nam trở thành đã trở thành điểm sáng trong công tác kiểm soát dịch bệnh và chữa bệnh. Có được thành công đó là nhờ sự dẫn dắt đúng hướng của Chính phủ và năng lực của ngành y tế Việt Nam. Đã và đang chiến đấu chống dịch, cũng sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức để phục hồi kinh tế và các hoạt động sản xuất sau dịch, song nếu nhìn vào mặt tích cực thì đây cũng là cơ hội khẳng định vị thế của ngành y tế Việt Nam đối với thế giới, cũng có nghĩa là cơ hội cho du lịch y tế Việt Nam cất cánh có thể thực hiện từ hôm nay nếu có chiến lược và kế hoạch hành động cụ thể.