
29/12/2023
Gout là do rối loạn chuyển hóa mà ra. Từ 35 tuổi trở đi, cơ thể sẽ bắt đầu có xu hướng xuống cấp, nếu chúng ta vẫn giữ phong độ ăn uống như lúc trẻ thì chắc chắn rối loạn chuyện hóa sẽ xẩy ra.
Vậy rối loạn chuyển hóa là gì ?
Rối loạn chuyển hóa còn được gọi là hội chứng rối loạn chuyển hóa, hay hội chứng chuyển hóa, hoặc hội chứng X là một tập hợp các điều kiện thường xuất hiện cùng nhau đồng thời.
Hội chứng chuyển hóa (HCCH) bao gồm 1 nhóm các yếu tố nguy cơ tập hợp lại trên một người bệnh: tình trạng béo bụng; rối loạn lipid máu (tình trạng rối loạn các chất béo trong máu như triglycerid máu cao, HDL-C máu thấp, LDL-C cao, tạo nên mảng xơ vữa ở thành động mạch); tăng huyết áp; tình trạng kháng insulin hoặc không dung nạp đường (tình trạng cơ thể không thể sử dụng insulin và đường một cách hiệu quả); tình trạng tiền đông máu (tăng fibrinogen và chất ức chế plasminogen hoạt hóa PAI-1 cao trong máu); tình trạng tiền viêm (CRP tăng cao trong máu).
Chuyển hóa axít uric: axít uric máu thường tăng, có lẽ có liên quan đến tăng triglycerid máu. Cần chú ý đến sự tăng axít uric đột ngột khi điều trị nhằm giảm cân, có thể gây cơn gút cấp tính (do thoái giáng protid).
Tương quan giữa hcch - bệnh tim mạch và đái tháo đường
Hội chứng chuyển hóa liên quan đến nguy cơ tim mạch và đái tháo đường týp 2, sự hiện diện của HCCH thường kết hợp với sự gia tăng nguy cơ bệnh mạch vành, nhồi máu cơ tim và đột quỵ
Thừa cân và béo phì thường liên quan đến kháng insulin và HCCH. Tuy nhiên béo phì thể bụng có tương quan cao với các yếu tố nguy cơ chuyển hoá hơn là sự gia tăng chỉ số BMI; vì thế chỉ số vòng eo được được sử dụng như là 1 tiêu chuẩnquan trọng trong HCCH. Vì mỡ bụng không chỉ là nơi dự trữ triglycerid mà cònlà cơ quan nội tiết, vì ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy chúng phóng thích một số hoóc-môn như TNFa (Tumor Necrosis Factora: yếu tố gây hoại tử mô) và interleukin 6 có liên quan đến kháng insulin.
Tăng triglycerid thường gặp ở HCCH và nó liên quan đến các yếu tố gây xơ vỡ động mạch như tăng Lipoprotein giàu triglycerid, tăng LDL-C nhỏ đậm đặc (lipoprotein) gây xơ vữa và giảm HDL-C.
HDL-C thấp có nguy cơ mạch vành tương đương với tăng cholesteron toàn phần hoặc tăng LDL-C, vì vậy HDL-C thấp được xem là yếu tố nguy cơ tim mạch chính dùng để dự đoán bệnh mạch vành. Tỉ lệ triglycerid /HDL cũng có giá trị tiên đoán cao về bệnh tim mạch. Vì có nhiều bằng chứng cho thấy sự phối hợp giữa giảm HDL với tăng triglycerid như là sự hiện diện của tình trạng đề kháng insulin cũng như nguy cơ bệnh mạch vành.
Kháng insulin là sự gia tăng nồng độ insulin trong khi đường máu bình thường hay tăng, có thể nói khi đường huyết bình thường insulin tăng cao là có kháng insulin. Cường insulin là một phản ứng với sự kháng insulin, tức là cần nhiều insulin hơn để kiểm soát đường huyết.
Hội nghị chuyên đề về tăng huyết áp lần thứ XIV tháng 5/ 1992 tại Madrid đã xác định cơ chế làm tăng huyết áp của kháng insulin gồm: insulin làm tăng tái hấp thu Na và nước ở ống thận, insulin làm tăng calacholamin (tăng hoạt tính của hệ thần kinh giao cảm), insulin làm thay đổi sự vận chuyển ion qua màng và có thể gây rối loạn tiết oxide nitric bởi nội mạch.
Các bất thường về chuyển hóa như: tăng triglycerid, giảm HDLC, tăng mỡ bụng, tăng insulin, tăng huyết áp, tăng nhẹ đường huyết là những yếu tố liên quan đến đề kháng insulin. Đề kháng insulin xuất hiện trước và tạo điều kiện khởi phát đái tháo đường týp 2, tăng đường huyết thường xuất hiện khi tế bào tuỵ không bù trừ được hiện tượng kháng insulin bằng cách phóng thích insulin. Vì vậy đái tháo đường týp 2 chỉ là hậu quả của sự kháng insulin và các bất thường chuyển hóa đi trước. Đái tháo đường týp 2 đã được biết chắc chắn có tương quan với nguy cơ cao bị các biến chứng vi mạch và các bệnh tim mạch gồm bệnh mạch vành, bệnh mạch máu não và bệnh mạch ngoại vi.
Đạm niệu vi thể (theo E.Ritz và Betteridge) là yếu tố đi kèm thường gặp trong hội chứng chuyển hóa. Đây là tiền triệu nguy cơ quan trọng đối với bệnh tim mạch ở cả bệnh nhân đái tháo đường và không đái tháo đường.
Nồng độ CRP có độ nhạy cao (hs -CRP), một biểu hiện của hiện tượng viêm mạn tính sẽ gia tăng khi có sự xuất hiện của mỗi thành phần HCCH, và có sự khác biệt có ý nghĩa (P1mg/dL là một yếu tố nguy cơ mạnh tương đương với LDL-C. Phụ nữ bị HCCH mà có CRP tăng cao sẽ có nguy cơ tim mạch tăng gấp 4 lần so với phụ nữ không có HCCH và CRP thấp.
Những nghiên cứu dịch tễ học gần đây chỉ ra rằng cần xem xét đến sự hiện diện của HCCH hơn là từng yếu tố của nó, vì nguy cơ tim mạch khi có HCCH lớn hơn nguy cơ tim mạch của từng thành phần riêng lẻ. HCCH làm tăng nguy cơ bệnh mạch vành, nhồi máu cơ tim và đột quỵ ở cả hai giới, tăng cả bệnh suất và tử suất tim mạch một cách độc lập. Cần lưu ý rằng HCCH cũng làm tăng nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân đã bị bệnh tim hoặc bệnh đái tháo đường týp 2 và cả ở những người có đường huyết bình thường hay rối loạn dung nạp đường huyết lúc đói hoặc bất dung nạp đường.