Cộng đồng Dược Phẩm và Thực Phẩm Chức Năng

  • Home
  • Vietnam
  • Hanoi
  • Cộng đồng Dược Phẩm và Thực Phẩm Chức Năng

Cộng đồng Dược Phẩm và Thực Phẩm Chức Năng Bảo vệ sức khỏe trước tiên phải hiểu về bệnh lý ,thông tin về dược phẩm và thực phẩm chức năng .

“Thận có khỏe thì sức mới bền” và đây là 8 cách chăm sóc thận đơn giản bất kỳ ai cũng phải nên làmĐông y có cách chăm só...
04/07/2018

“Thận có khỏe thì sức mới bền” và đây là 8 cách chăm sóc thận đơn giản bất kỳ ai cũng phải nên làm

Đông y có cách chăm sóc thận đơn giản mà bất kỳ ai cũng có thể thực hiện được, không tốn kém mà hiệu quả lâu dài. Chỉ cần bạn biết bí quyết này và kiên trì thực hành đều đặn.



Đông y có câu nói nổi tiếng, thận khí đủ thì bách bệnh trừ. Ý chỉ rằng nếu thận khỏe thì người sẽ khỏe, mọi bệnh tật sẽ tự tiêu tan.

Tuy nhiên hiện nay, nhiều người không biết cách dưỡng thận, không chăm sóc thận đúng mực dẫn đến nhiều bệnh phát sinh như sỏi thận, suy thận, thậm chí phải chạy thận, thay ghép thận mới, rất tổn hại đến sức khỏe, tài chính và tuổi thọ.

Một cặp thận đại diện cho âm và dương, thận phải tính âm, thận trái tính dương, có chức năng kiểm soát lục phủ, ngũ tạng. Do sự đặc biệt đó, các chuyên gia Đông y khuyên bạn cách dưỡng thận đơn giản nhưng rất hữu hiệu như sau.

1. Xoa bóp tai

Theo Đông y, nhìn hình thức cũng đủ nhận ra rằng tạo hóa đã tạo ra 2 quả thận có hình đôi tai. Thực tế, tai là cơ quan đại diện cho thận. Nếu thường xuyên xoa bóp hai tai có tác dụng cường thận, dưỡng thận.

Cách thực hiện xoa bóp đơn giản, 2 tay cầm nhẹ vào vành tai, chà xát đến khi tai nóng lên và tỏa nhiệt. Sau đó nắm chặt vành tai và thả lỏng. Mỗi ngày nên thực hiện 2-3 lần, mỗi lần khoảng 20 phút. Cũng có thể làm ít hơn, tùy thời gian của bạn. Mục đích là tai phải nóng lên.

Liệu pháp này giúp tăng cường tuần hoàn máu và kiện toàn chức năng thận.

2. Chà xát thắt lưng

Thắt lưng là vị trí tương ứng với thận, bao bọc và giữ ấm cho thận. Chà xát vùng thắt lưng có thể khơi thông kinh mạch, khí huyết thông suốt, tăng cường chức năng của thận. Sau mỗi lần đại tiểu tiện, dùng hai tay chà xát thắt lưng 36 lần, sẽ cảm thấy nóng vùng thắt lưng. mang lại hiệu quả chăm sóc thận tuyệt vời.

3. Ngâm chân

Mỗi đêm dùng nước nóng ngâm chân, sau đó xoa xát nhiều lần huyệt Dũng tuyền trong lòng bàn chân. Hoặc có thể vỗ huyệt Thận du, các ngón tay chụm lại, lòng bàn tay khum thành nơi chứa khí, vỗ lên huyệt Thận Du phát ra tiếng kêu như tiếng vỗ tay, thì hiệu quả càng tốt.

Huyệt Thận du: Lấy đối xứng từ rốn ra sau lưng một vị trí, trên cột sống đó là huyệt Mệnh môn, sau đó kéo ra hai bên mỗi bên khoảng 1,5 thốn là gặp huyệt Thận du.



4. Luyện đầu ngón tay út

Ngỏn tay là điểm xuất phát của các kinh mạch, cửa ngõ của nội tạng. Đầu ngón út có nhiều dây thần kinh, đồng thời có liên kết với lục phủ ngũ tạng. Đầu ngón út tay phải có sự liên kết với thận. Đầu ngón út tay trái có liên thông với bàng quang.

Thường xuyên luyện đầu ngón út có thể cường thận. Phương pháp luyện tập phổ biến là hằng ngày dùng ngón út nâng ấm nước hoặc cốc nước 99 lần, trong sinh hoạt hàng ngày có thể ưu tiên dùng ngón út để lật sách, mở cửa hoặc làm thêm các việc khác trong khả năng thay vì “ngồi chơi”.

5. Úp tay vào lưng

Mỗi đêm trước khi ngủ lấy hai mu bàn tay tựa lên vùng thắt lưng, ở tư thế nằm ngửa trên giường. 5-10 phút sau, nhiệt sẽ từ từ lan khắp toàn thân. Lúc đầu hai tay bị thắt lưng đè lên sẽ bị tê, 3-5 ngày sau khi đã quen thì không tê nữa, hai chân sẽ cảm thấy nhẹ nhàng linh hoạt.

Dù buổi tối hay ban ngày, chỉ cần là đang nằm, hãy kiên trì dùng 2 mu bàn tay ép lên 2 thắt lưng nửa giờ, sẽ thấy được hiệu quả kì diệu.

6. Ấn huyệt Thái khê

Phương pháp này có thể dùng cho hầu hết các các trường hợp mắc bệnh thận, đặc biệt là đối với người có bệnh thận mãn tính, có biểu hiện phù. Đồng thời cũng giúp loại bỏ quầng thâm mắt, làm trắng da, tăng cường trí nhớ, cải thiện khả năng nghe nhìn, tăng cường sức đề kháng của cơ thể.

Dùng ngón tay cái của tay phải ấn nhẹ vào huyệt Thái khê chân trái và ngược lại, dùng lực sao cho cảm thấy có cảm giác là vừa. Tùy thời gian của bạn, có thể ấn từ 3-5 phút hoặc hơn.

7. Ấn huyệt Quan nguyên

Thường xuyên dùng ngón tay ấn, xoa bóp huyệt này sẽ có tác dụng bồi bổ nguyên khí, điều hòa khí huyết, tăng cường chức năng của các tạng phủ, tăng cường sức miễn dịch của cơ thể. Ngoài ra còn có tác dụng chống tăng huyết áp, mỡ máu, táo bón, tiêu chảy, liệt dương, đái dầm, choáng đầu, mất ngủ, đau bụng kinh.

8. Tập luyện khí công

Lý luận về cơ thể người trong khí công gắn liền với học thuyết Âm – Dương và ngũ hành của Đạo gia, coi thân thể người là một hệ thống được nuôi dưỡng bằng một loại năng lượng còn gọi là khí thông qua các kênh năng lượng gọi là kinh lạc. Khí chạy trong các kênh phải đạt được cân bằng âm dương, đầy đủ, dịch chuyển tự do nhưng đúng hướng.

Nếu dòng năng lượng trong kinh lạc không được thông suốt, sẽ khiến cơ thể bị bệnh. Bộ phận nào tắc nghẽn, bộ phận đó có thể sinh viêm, đau, suy giảm chức năng, kết sỏi (sỏi thận, gan, mật…).

Các bài tập khí công có tác dụng đánh thông các dòng năng lượng để hồi phục lại sự điều hòa và cân bằng trong cơ thể. Điều này cũng bao gồm việc thiết lập lại sự cân bằng giữa âm và dương và ngũ hành. Khi các kinh mạch được khai thông và điều hòa thì người ta sẽ đảo ngược được các vấn đề bệnh tật, bao gồm cả bệnh thận.

Ngoài ra, để giữ gìn sức khỏe cho thận, bạn cũng nên lưu ý đến thói quen sinh hoạt hàng ngày. Ví dụ như, không nhịn tiểu, uống đủ nước, không nên ăn quá mặn, hạn chế rượu bia, thịt đỏ, đồng thời kết hợp ngủ sớm dậy sớm. Như vậy không chỉ cường thận mà thực ra là tốt cho toàn thân.

Đông y đã hướng dẫn bạn cách chăm sóc thận vô cùng đơn giản, có thể tự làm mọi lúc mọi nơi. Vấn đề là bạn có đủ kiên trì để áp dụng hay không. Sức khỏe trong tầm tay của mỗi chúng ta, hôm nay quan tâm, ngày mai hưởng lợi lớn.

*Theo Health/Sina/Sohu

VI**RA - HIỂU VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ Vi**ra chỉ có tác dụng trong vòng 30 phút và có thể kéo dài 4 giờ. Người sử dụng cần ở...
20/01/2015

VI**RA - HIỂU VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ

Vi**ra chỉ có tác dụng trong vòng 30 phút và có thể kéo dài 4 giờ. Người sử dụng cần ở trong tình trạng tâm lý và thể chất đã được kích thích. Nếu là người “lạnh băng”, không quan tâm đến tình dục thì Vi**ra sẽ không có tác dụng.

Được sử dụng từ tháng 3/1998, sildenafil citrate (Vi**ra) đã nhanh chóng nhận được sự ủng hộ của hơn 7 triệu nam giới yếu sinh lý và bạn tình của họ. Nó cũng được xem như một loại “thần dược” giúp nhiều nam giới có tuổi kéo dài đời sống tình dục. Tuy nhiên, Vi**ra không phải là thuốc có hiệu quả 100% cho những người yếu sinh lý. Người dùng nó phải được thầy thuốc chỉ định và theo dõi vì Vi**ra có thể gây tác dụng phụ nghiêm trọng. Sau đây là câu trả lời cho những thắc mắc thường gặp về viên thuốc này:

Vi**ra có phải là thuốc kích dục?

Đây là sự hiểu lầm thường gặp nhất. Thuốc này làm tăng sự cương cứng nhưng không ảnh hưởng đến dục năng hay ham muốn tình dục ở người bình thường, nghĩa là không có tác dụng kích dục. Nếu nam giới có thể duy trì được sự cương cứng lâu thì dù có uống Vi**ra cũng không thấy tác dụng gì hơn. Nó chỉ thực sự có tác dụng với những nam giới tự nhận là không có vấn đề gì trong sinh hoạt tình dục, thậm chí có thể thực hành vài ba lần mỗi tuần, nhưng trong thực tế chỉ cương cứng được 50%, nghĩa là chỉ có thể duy trì tình trạng cương cứng khoảng 2-3 phút.

Vi**ra có cơ chế tác dụng như thế nào?

Vi**ra có hiệu quả cho những trường hợp yếu sinh lý vì lý do thực thể, tâm lý hay phối hợp. Nó làm tăng sự cương cứng bằng cách điều hòa vận mạch ở dương vật, ức chế men phosphodiesteraza 5 (PDE 5), nhờ đó làm chất GMP (tiết ra trong lúc hứng khởi tình dục) tồn tại lâu, giúp máu tới dương vật nhiều hơn. Hiệu quả của Vi**ra đạt tới 80%.

Những ai nên sử dụng Vi**ra?

Vi**ra có hiệu quả cho mọi thể yếu sinh lý. Những người bị tổn thương cột sống (ống tủy) hoặc yếu sinh lý do nguyên nhân tâm lý có đáp ứng tốt nhất với Vi**ra. Nam giới tuổi ngoài 65 cũng có đáp ứng tốt như thanh niên.

Liều lượng bao nhiêu là đủ?

Nên bắt đầu từ 50 mg, nếu có tác dụng thì thử với 25 mg. Nếu 50 mg không có tác dụng thì thử với 100 mg (1 viên). Vi**ra có thể cho tác dụng trong một ngày, không có tác dụng cho ngày hôm sau và không nên dùng 2 viên trong cùng một ngày. Ở Mỹ, nhiều công ty bảo hiểm không thanh toán cho các ca tai nạn do dùng Vi**ra. Một số công ty khác có thanh toán nhưng chỉ giới hạn 6-8 viên mỗi tháng.

Vi**ra có những tác dụng phụ gì?

Thường gặp nhất là nhức đầu, nóng bừng mặt hay khó tiêu. Mờ mắt cũng là tác dụng phụ hay gặp.

Có thể dùng Vi**ra cho người bị bệnh tim?

Không được dùng Vi**ra cho người bị bệnh tim và đang dùng thuốc có nitrate. Nó có thể gây giảm lưu lượng máu kéo dài và nghiêm trọng ở các động mạch vành vốn đã hẹp. Người bị huyết áp cao hay thấp, viêm võng mạc... cần hỏi ý kiến thầy thuốc trước khi dùng Viarga. Tác dụng của thuốc trên những bệnh này chưa được nghiên cứu đầy đủ.

Có thể dùng Vi**ra cho người bệnh tiểu đường?

Những người bị bệnh tiểu đường đáp ứng kém hơn vì có thể bị tổn thương thần kinh và giảm lưu lượng máu tới các thể hang. Tuy bệnh tiểu đường gây nhiều biến chứng, trong đó có rối loạn chức năng cương dương, nhưng khi tình trạng yếu sinh lý đã xảy ra thì vẫn có thể điều trị bằng Vi**ra hay nhiều biện pháp khác.

Bị cắt tuyến tiền liệt có thể dùng Vi**ra?

Người bị cắt tuyến tiền liệt cũng có thể bị tổn thương thần kinh và không đáp ứng với Vi**ra.

Có thể dùng Vi**ra cho nữ?

Vi**ra làm tăng tính thư giãn của cơ âm vật và âm đạo để máu dồn đến vùng cơ quan sinh dục nhiều hơn. Vi**ra tỏ ra có tác dụng khi dùng đơn độc hay phối hợp với các chất gây co mạch khác nhằm điều trị rối loạn về hưng phấn ở phụ nữ. Hiện có những nghiên cứu về lâm sàng để đánh giá tác dụng của thuốc với trạng thái rối loạn hưng phấn tình dục. Cũng đã có những công bố về hiệu quả của thuốc trong điều trị biến đổi chức năng tình dục ở phụ nữ nói chung và phụ nữ mãn kinh nói riêng.

BS Đào Xuân Dũng

LƯU Ý KHI NGÂM RƯỢU THUỐC .Rượu thuốc là loại rượu được ngâm với thảo mộc hoặc dược liệu bán tại các hiệu thuốc nam và đ...
24/01/2014

LƯU Ý KHI NGÂM RƯỢU THUỐC .

Rượu thuốc là loại rượu được ngâm với thảo mộc hoặc dược liệu bán tại các hiệu thuốc nam và được uống với mục đích giữ sức khoẻ. Tuy nhiên, để rượu thuốc phát huy hết tác dụng, cần chú ý 3 điều sau:



Thảo mộc loại khoáng chất không thích hợp ngâm rượu:

Một số loại thuốc không thích hợp ngâm rượu, ví dụ như thuốc đông y dạng khoáng, bởi vì thành phần có ích trong đó rất khó chiết xuất ra khi ngâm với rượu. Một số thảo dược dạng khoáng còn hàm chứa thành phần có độc, ví dụ chứa thủy ngân, chì, asen…đều không thích hợp để ngâm rượu. Ngoài ra, nếu muốn dùng rắn độc để ngâm rượu thuốc thì cần sử dụng dưới sự hướng dẫn của dược sĩ đông y.



Tỉ lệ phối hợp phải hài hòa :



Khi ngâm rượu thông thường dùng rượu trắng 50-60 độ, rượu trắng với nồng độ này đủ để giết chết vi sinh vật tồn tại trong thảo dược. Hơn nữa cồn rượu nồng độ cao càng dễ làm cho thành phần có ích chiết xuất ra. Trong quá trình ngâm rượu, sự phối hợp giữa rượu và dược thảo là lượng rượu gấp 10-20 lần thảo dược. Căn cứ vào chất thảo dược có thể điều chỉnh thích hợp, tính hấp thụ nước của dược liệu có chất rời, lỏng mạnh nên có thể tăng thêm lượng rượu, ví dụ như cẩu khởi có thể ngâm với lượng rượu gấp 20 lần; Tính hấp thu nước của dược liệu có chất rắn chắc kém có thể giảm bớt lượng rượu, ví dụ nhân sâm chỉ cần ngâm lượng rượu gấp 10 lần là được.



Chú ý thời gian ngâm rượu :



Thời gian ngâm rượu tùy từng loại thảo dược nên khác nhau. Rượu càng lâu càng thơm.



Không ít người cho rằng, rượu thuốc cần ngâm từ 6 tháng đến 1 năm trở lên, thời gian càng dài hiệu quả thuốc càng tốt. Tuy nhiên thực tế lại là, thời gian ngâm rượu cần dựa vào lượng thảo dược nhiều hay ít, sự thay đổi nhiệt độ… để định đoạt.



Thông thường, thời gian ngâm rượu thuốc khoảng 15-30 ngày. Thời gian quá dài sẽ ở một mức độ nào đó làm cho ethanol bay hơi, sau khi nồng độ giảm thấp, tác dụng kháng khuẩn sẽ giảm đi, thảo dược có thể sinh ra nấm mốc. Uống phải rượu thuốc biến chất giống như ăn phải thực phẩm khuẩn mốc, sẽ gây ra tổn thương nhất định cho dạ dày, đường ruột và gan. Nếu sau khi uống rượu xong có hiện tượng mặt đỏ, hoa mắt, chóng mặt, nôn ọe, tim đập nhanh quá độ…thì đó là phản ứng ban đầu của trúng độc, nên nhanh chóng đến bệnh viện.



Trong thời gian ngâm rượu thuốc, cần lắc đều hoặc đảo đều hàng ngày, sau 1 tuần thì 1 tuần đảo đều/lần. Thảo dược có chất cứng rắn như hải mã, tắc kè cần ngâm lâu hơn.



Các loại có chất rời như cẩu khởi chú ý thời gian ngâm nên ngắn. Ngoài ra độ rượu có ảnh hưởng trực tiếp đến rượu thuốc, nhiệt độ cao thì ngâm thời gian ngắn, nồng độ thấp ngâm thời gian dài hơn. Nếu nóng lòng muốn uống thì nên cắt dược liệu ra thành miếng để ngâm, như vậy mới nhanh chóng làm cho thành phần hữu ích kịp thời chiết xuất ra.

BÀI THUỐC CHỮA HO TỪ MẬT ONG.Thời tiết thay đổi dễ làm phát sinh nhiều chứng ho: ho do dị ứng thời tiết, ho gió, ho do c...
23/01/2014

BÀI THUỐC CHỮA HO TỪ MẬT ONG.

Thời tiết thay đổi dễ làm phát sinh nhiều chứng ho: ho do dị ứng thời tiết, ho gió, ho do cảm lạnh, nhiễm lạnh, ho do viêm họng, viêm phế quản mãn tính….
Người già, trẻ nhỏ, người sức đề kháng yếu hoặc cơ địa nhạy cảm…thường bị mắc các chứng ho này.
Sử dụng phương pháp dân gian để chữa ho là cách mà nhiều người lựa chọn vì tính hiệu quả và an toàn, nhất là với các chứng ho dễ tái phát, ho dai dẳng lâu ngày…

Mật ong thường được sử dụng để chữa ho trong dân gian. Sau đây là một số bài thuốc được làm từ mật ong, kết hợp thêm một số loại cây hoa, củ, quả có sẵn tại nhà:
Mật ong hấp quất còn nguyên vỏ xanh:
Cách làm: Quất (3 – 4 quả), rửa sạch vỏ, để ráo nước, bổ đôi quả, bỏ hạt, thái lát mỏng, cho vào bát tô. Đổ mật ong ngập phần quất, trộn đều cho quất thấm đều mật ong. Sau đó đem hấp hoặc cho vào nồi đun cách thủy 10 – 15 phút, tới khi quất nhuyễn, quyện đều với mật ong thành một thứ dịch sánh như siro.
Để nguội, ngày uống 2 – 3 lần, mỗi lần 1 – 2 thìa café. Khi uống, có thể thêm một vài hạt muối. Không nuốt ngay, ngậm 5s trong miệng, để trôi từ từ qua cổ họng, giúp giảm viêm họng, giảm ngứa rát, khản tiếng…
Mật ong hấp lá hẹ
3 – 5 nhánh lá hẹ, rửa sạch, để ráo nước, thái nhỏ, cho vào bát. Đổ mật ong ngập lá, trộn đều, đem hấp hoặc đun cách thủy cho tới nhuyễn. Cách sử dụng tương tự mật ong hấp quất.
Mật ong hấp tỏi
4 – 5 nhánh tỏi, đập dập, trộn đều mật ong, đem hấp cách thủy, tới khi ngửi thấy mùi tỏi hăng hắc là được (Không cần để tỏi quá nhừ). Để nguội, uống 2 -3 lần/ngày, mỗi lần 1 – 2 thìa café. Mật ong khi hấp cùng với tỏi làm tăng tính kháng sinh tự nhiên, giảm viêm họng, tăng sức đề kháng.
Có thể làm tương tự cách trên với các nguyên liệu khác như: cánh hoa hồng, rễ chanh, lá húng chanh, quả phật thủ, hoa khế, hoa đu đủ đực, lá tía tô, hành hoa… Tùy theo những nguyên liệu có sẵn trong mỗi gia đình mà sử dụng để chế biến.
Trường hợp, không có các nguyên liệu phối hợp, có thể dùng mật ong nguyên chất. Khi dùng cho trẻ dưới 1 tuổi, nên hấp mật ong trước khi dùng.
Cùng cộng đồng dược phẩm và thực phẩm chức năng ngừa ho hiệu quả bạn nhé !

HEN PHẾ QUẢN VÀ NGỪNG TIM : BS NGUYỄN VĂN THỊNH Hen phế quản vẫn còn là nguyên nhân thường gặp gây tử vong ở những người...
20/01/2014

HEN PHẾ QUẢN VÀ NGỪNG TIM :



BS NGUYỄN VĂN THỊNH



Hen phế quản vẫn còn là nguyên nhân thường gặp gây tử vong ở những người trưởng thành trẻ tuổi, chủ yếu là trong số những người có bệnh hen phế quản mãn tính nặng (asthme chronique sévère), được liên kết với những tình huống tâm lý-xã hội bất thuận lợi và do một xử trí điều trị tồi.



Điều quan trọng là nhận biết và điều trị những cơn bộc phát hen phế quản để ngăn ngừa một hen phế quản nặng và một ngừng tim hô hấp. Có những chỉ thị quốc gia và quốc tế để điều trị hen phế quản. Bài này sẽ tập trung vào điều trị những bệnh nhân với một hen phế quản gần ngừng tim-hô hấp và một hen phế quản gây nên một ngừng tim.



NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA NGỪNG TIM :



Trích:

Ngừng tim ở người bị hen phế quản thường là một biến cố cuối cùng sau một thời kỳ giảm oxy-huyết ; đôi khi có thể xảy ra đột ngột. Ngừng tim ở người hen phế quản có thể là do :

một co thắt phế quản nghiêm trọng và những nút niêm dịch (bouchons de mucus) dẫn đến ngạt thở.
những loạn nhịp tim do giảm oxy mô, các thuốc kích thích (các chất chủ vận beta adrénergique, aminophylline) hay do những rối loạn điện giải.
một sự tăng thổi phồng động lực (hyperinflation dynamique), nghĩa là những áp lực thở ra dương nội tại (pression expiratoire positive extrinsèque) (auto-PEP), có thể xảy ra ở những bệnh nhân hen phế quản được thông khí cơ học. Sự tăng thổi phồng này được gây nên bởi một tình trạng kẹt khí (trapping d’air) trong phổi. Sự gia tăng áp suất trong ngực làm giảm lưu lượng tim.
một tràn khí dưới áp lực thường xảy ra hai bên.

Kỹ thuật đánh giá bằng 4H và 4T để tìm kiếm những nguyên nhân đảo ngược có thể giúp nhận diện những nguyên nhân này trong trường hợp ngừng tim. ĐÁNH GIÁ VÀ ĐIỀU TRỊ



Sử dụng phương thức ABCDE để đánh giá mức độ nghiêm trọng và hướng dẫn điều trị.



Vài société savante, nhất là British Thoracic Society (BTS) đã công bố những chỉ thị để điều trị hen phế quản nặng. Mức độ nghiêm trọng của hen phế quản được tóm tắt trong bảng sau đây.



Trích:

Hen phế quân gần như gây tử vong (asthme quasi fatal)



PaO2 gia tăng và/hay cần một thông khí cơ học với những áp suất thổi phồng tăng cao.



Hen phế quản nghiêm trọng (asthme grave)



Hen phế quản nặng (asthme sévère) + một trong những điểm sau đây :

Peak flow 25/phút
Tần số tim >110/phút
Không thể nói hết câu

Những tiêu chuẩn vệ mức do nghiêm trọng của hen phế quản căn cứ trên những chỉ thị của BTS (British Thoracic Society) và SIGN (Scottish Intercollegiate Guidelines Network)



Những tiếng thở rít (sibilances) là một dấu hiệu lâm sàng thông thường, nhưng mức độ nghiêm trọng không tương ứng với mức độ tắc của đường hô hấp. Những nguyên nhân khác của thở rít gồm có : phù phổi, bệnh tắc phế quản phổi mãn tính (BPCO), viêm phổi, phản vệ, vật lạ, nghẽn tắc động mạch phổi, giãn phế quản, một khối u dưới thanh môn.
Bệnh nhân với hen phế quản nặng cần một thái độ xử trí nội khoa tích cực để ngăn ngừa sự suy sụp lâm sàng. Những người lâm sàng có kinh nghiệm sẽ điều trị những bệnh nhân này trong một đơn vị điều trị tăng cường.
Sử dụng một nồng độ oxy thở vào cho phép có được một SpO2 từ 94 đến 98%. Đôi khi cần cho oxy lưu lượng cao qua một mặt nạ.
Salbutamol (5mg cho bằng đường khí dung) là điều trị chủ yếu của hen phế quản cấp tính. Những liều lượng lập lại mỗi 15 đến 20 phút hay cho liên tục có thể cần thiết. Những máy khí dung (nébulisateur) với lưu lượng oxy cao phải được sử dụng. Cần nhớ rằng các thuốc được dùng dưới dạng khí dung sẽ không được khuếch tán một cách có hiệu quả ở phổi nếu bệnh nhân suy kiệt và nếu bệnh nhân giảm thông khí (hypoventile). Nếu không có sẵn tức thời một máy khí dung, các thuốc chủ vận beta2 có thể được cho một cách tạm thời bằng sự sử dụng lặp lại một inhalateur-doseur với một dispositif de chambre d’expansion de grand volume.
Cho sớm corticoides (prednisolone 30-40 mg bằng đường miệng hay hydrocortisone 100 mg bằng đường tĩnh mạch mỗi 6 giờ). Thuốc dùng bằng đường miệng có một thời gian bán hủy dài hơn nhưng đường tĩnh mạch là dễ dàng hơn trong một hen phế quản rất nghiêm trọng.
Các anti-cholinergique dùng bằng khí dung (ipratropium 0,5 mg mỗi 4 đến 6 giờ) gây nên một giãn phế quản bổ sung ở một người bị hen phế quản nặng và ở những người không đáp ứng với beta-agoniste.
Sulfate de magnésium (2g TM chậm = 8 mmol) cũng hữu ích như là thuốc giãn phế quản đối với một hen phế quản nặng hay gần như gây tử vong (asthme quasi-fatal). Sulfate de magnésium cho bằng đường khí dung (250 mmol/l) trong một thể tích 2,5 đến 5ml cũng không gây nguy hiểm và có thể có lợi.
Xét đến salbutamol TM (250 mcg TM chậm) ở những bệnh nhân không đáp ứng với điều trị bằng khí đúng hay khi điều trị bằng khí đúng/hít không thể thực hiện (thí dụ với một bệnh nhận được thông khí bằng mặt nạ và quả bóng). Sử dụng một tiêm truyền liên tục 3 đến 20 mcg/phút nếu cần thiết.
Aminophylline chỉ được xét đến đối với những hẹn phế quản nặng hay gần như gây tử vong. Một liều lượng tấn công 5mg/kg được chờ trong 20 đến 30 phút (trừ phi nếu có một điều trị mãn tính), tiếp theo sau bởi một tiêm truyền 500 đến 700 mcg/kg/ giờ. Những nồng độ huyết thanh của théophylline phải được duy trì dưới 20 mcg/ml để tránh ngộ độc.
Những bệnh nhân này thường mất nước và giảm thể tích và sẽ được hưởng một làm đầy thể tích tích. Các thuốc chủ vận beta và các stéroide có thể gây nên giẫm kali-huyết, cần được điều chỉnh với những bổ sung điện giải.
Những bệnh nhân không đáp ứng với điều trị ban đầu hay phát triển những dấu hiệu hen phế quản đe dọa mạng sống phải được đánh giá bởi một thầy thuốc chuyên khoa ICU. Những bệnh nhân này có thể được nội thông khí quản và hỗ trợ thông khí.

NGỪNG TIM:

Thực hiện hồi sinh cơ bản theo các protocols BLS và ALS chuẩn. Sự thông khí có thể khó do sự gia tâng của sức cản của các đường dẫn khí ; tuy nhiên phải cố ngăn ngừa không cho dạ dày bị thổi phồng.
Nội thông sớm khí quản. Có một nguy cơ đáng kể căng trướng dạ dày và giảm thông khí phổi khi ta cố thông khí một bệnh nhân hen phế quản nghiêm trọng không được nội thông.
Tần số hô hấp được khuyến nghị (10 thông khí mỗi phút) và thể tích lưu thông cần thiết để tạo nên một sự nở ngực bình thường trong khi thực hiện RCP không được gây nên sự tăng thổi phồng động lực (hyperinflation dynamique) của hai lá phổi (trapping gazeux).
Nếu nghi ngờ tăng thổi phồng động lực các lá phổi trong khi thực hiện RCP, thì một sự đè ép thành ngực và/hoặc một thời kỳ ngừng thở (déconnexion du tube trachéal) có thể loại bỏ sự kẹt khí (trapping gazeux) này. Mặc dầu thủ thuật này không được xác nhận một cách chắc chắn nhưng không thể gây hại trong một tình huống vả lại tuyệt vọng.
Sự tăng thổi phồng động lực làm gia tăng impédance transthoracique. Khi rung thất, hãy xét đến những năng lượng cao hơn để sốc điện trong trường hợp khử rung nếu lần thử khử rung ban đầu thất bại.
Tìm kiếm những nguyên nhân có thể đảo ngược bằng cách sử dụng phương pháp 4H và 4T.
Một tràn khi màng phổi dưới áp lực có thể khó chẩn đoán khi ngừng tim ; chẩn đoán có thể được gợi ý bởi sự căng phồng một bên cửa thành ngực và một khí thủng dưới da. Một siêu âm phế mạc bởi người thao tác có kinh nghiệm là nhanh hơn và hiệu quả hơn một chup phim ngực để phát hiện một tràn khi màng phổi. Một giảm ép (décompression) sớm bằng kim (thoracocentèse) rồi đặt dẫn lưu ngực tiếp theo sau là cần thiết. Một giảm ép bằng kim (décompression à l’aiguille) có thể thất bại vì chiều dài của kim không được thích đáng. Ở bệnh nhân được thông khí nhân tạo, một thoracostomie (phẫu thuật trỗ một lỗ vào trong thành ngực và phế mạc) có thể thực hiện nhanh hơn và hiệu quả lớn hơn để giảm đè ép lồng ngực.
Luôn luôn xét đến một tràn khí màng phổi hai bên trong trường hợp ngừng tim do hen phế quản.

ĐIỀU TRỊ SAU HỒI SỨC.

Theo các guideline chuẩn đối với điều trị sau hồi sinh.
Tối ưu hóa điều trị nội khoa của co thắt phế quản.
Sử dụng tăng thán huyết cho phép (hypercapnie permissive) : có thể không thể có được một oxygénation bình thường và một thông khí đúng đắn ở một bệnh nhân với co thắt phế quản nặng. Những cố gắng để có được một khí huyết động mạch bình thường có thể làm nặng những thương tổn phổi. Một sự giảm thông khí vừa phải làm giảm nguy cơ chấn thương và một tăng thán huyết thường chịu được tốt. Phải nhắm đến một độ bảo hòa oxy thấp hơn (thí dụ 90%).
Cho một an thần (liệt thần kinh cơ bằng curarisation nếu cần) và một ventialtion contrôlée. Mặc đầu không có những công trình nghiên cứu chính xác, kétamine và các thuốc gây mê hít có những tính chất giãn phế quản có thể hữu ích ở những bệnh nhân hen phế quản khó thông khí.
Yêu cầu sự trợ giúp sớm của một thầy thuốc đơn vị hồi sức tăng cường có kinh nghiệm.

BS NGUYỄN VĂN THỊNH

Thực phẩm chức năng, nên tiếp cận thế nào cho đúng?Trước hết phải khẳng định Thực phẩm chức năng hoàn toàn không phải là...
18/01/2014

Thực phẩm chức năng, nên tiếp cận thế nào cho đúng?

Trước hết phải khẳng định Thực phẩm chức năng hoàn toàn không phải là thuốc, điều này cũng có nghĩa là không sử dụng loại thực phẩm đặc biệt này với mong muốn là chữa được ngay một bệnh nào đó. Chúng ta hãy xem Thực phẩm chức năng và Thuốc khác nhau như thế nào?

Thuốc : Được điều chế bời một chất hay vài ba chất có thể là từ nguyên liệu hoá dược hay hoạt chất được chiết ra từ cây cỏ thiên nhiên, có tác dụng dập tắt hoặc cắt đứt ngay một khâu của nguyên nhân hoặc cơ thể gây ra bệnh, ví dụ như kháng sinh diệt vi khuẩn, thuốc lợi tiểu để giải độc tố ra khỏi cơ thể hay giảm ứ nước tế bào, thuốc cắt cơn hen phế quản, cơn cao huyết áp, giảm cơn đau v.v…

Trừ một số bệnh khá đặc biệt phải dùng thuốc dài ngày nhưng vẫn phải chia ra từng liệu trình, nhiều giai đoạn để chống nhờn thuốc, tránh tác dụng phụ do tích luỹ thuốc trong cơ thể, gây hại đến toàn thân hay các bộ phận nhạy cảm như gan, thận, não… đa số thuốc được dùng với thời gian ngắn khi nguyên nhân gây bệnh đã được loại bỏ hoàn toàn hoặc vẫn còn nhưng không thể gây thành bệnh, dần dà sức đề kháng của cơ thể đủ mạnh có thể tiêu diệt mầm bệnh.

Thực phẩm chức năng : trước hết nó là thực phẩm, nghĩa là thức để ăn hoặc uống hàng ngày, là các dạng thực phẩm được sản xuất theo công thức có tác dụng cải thiện sức khoẻ góp phần phòng ngừa một số bệnh thường gặp, làm chậm phát triển các bệnh mạn tính, điều hoà các hoạt động của các cơ quan như gan, dạ dày, ruột, thận, tim mạch, thần kinh… Người tiêu duìng có thể sử dụng thực phẩm chức năng như những thực phẩm thông dụng khác.

Thực phẩm chức năng khác với thuốc ở chỗ nhà sản xuất công bố trên nhà là thực phẩm, đảm bảo vệ sinh, an toàn sức khoẻ, phù hợp với các quy định về thực phẩm. đối với Thuốc nhà sản xuất công bố trên nhãn là thuốc, có tác dụng chữa bệnh, phòng bệnh với công dụng, chỉ định, liều dùng và chống chỉ định. Thuốc là những sản phẩm dùng để điều trị và phòng bệnh, được chỉ định để tái lập, điều hành hoặc sửa đổi chức năng sinh lý của cơ thể.

Thực phẩm chức năng còn khác với thuốc là có thể sử dụng thường xuyên, lâu dài nhằm nuôi dưỡng (thức ăn qua sonde), bổ dưỡng hoặc phòng ngừa các nguy cơ gây bệnh… mà vẫn an toàn không có độc hại, không có tác dụng phụ. Người tiêu dùng có thể tự sử dụng theo “hướng dẫn cách sử dụng” của nhà sản xuất mà không cần khám bệnh, kê đơn của thầy thuốc.

Thực phẩm chức năng cũng khác thực phẩm truyền thống ở chỗ được sản xuất, chế biến theo công thức: bổ sung một số thành phần có lợi hoặc loại bớt một số thành phần bất lợi. Việc bổ sung hay loại bớt phải được chứng minh và cân nhắc một cách khoa học và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép. Thực phẩm chức năng có tác dụng đối với sức khỏe nhiều hơn (tác dụng với một hay một số chức năng sinh lý của cơ thể) là các chất dinh dưỡng thông thường. Khác với thực phẩm truyền thống, thực phẩm chức năng với liều sử dụng thường nhỏ, thậm chío tình bằng miligam, gram như thuốc và có đối tượng chỉ định rõ rệt như: người già, trẻ em, phụ nữ tuổi mãn kinh, người có hội chứng thiếu vi chất, rối loạn chức năng sinh lý nào đó…

Vậy nên tiệp cận thực phẩm chức năng ra sao cho đúng cách?

Trước khi quyết định mua thực phẩm chức năng về dùng, mọi người cần hiểu được thực chất của các loại thực phẩm này, tốt nhất là nên đến thầy thuốc khám, tư vấn và được cung cấp các thông tin về loại sản phẩm thực phẩm chức năng định sử dụng, tự đánh giá đúng tình hình bệnh tật và sức khoẻ của chính mình để chọn đúng thực phẩm cần thiết cho bản thân.

Việc chọn lựa này cũng nên đi sâu chọn thực thực phẩm truyền thống, thực phẩm thiên nhiên mà ta vẫn có thể có được yêu cầu tương tự thực phẩm chức năng. Khi chọn mua thực phẩm chức năng chúng ta cũng cần phải biết được rằng, các loại thực phẩm này đã được cơ quan chức năng khẳng định là thực phẩm có chất lượng và đảm bảo an toàn, vệ sinh. Nơi cung cấp thực phẩm chức năng cũng phải là cơ sở được phép kinh doanh và công khai để tránh đi mua theo kiểu rỉ tai nhau. Việc quảng bá thực phẩm chức năng cũng phải được quản lý theo quy định, đồng thời người tiêu dùng phải được tiếp cận qua các kênh thông tin chính thống, để tránh xu hướng thương mại nhiều hơn vì sức khoẻ cộng đồng.

Hiện nay, có tình trạng là một bộ phận người tiêu dùng tiếp cận thực phẩm chức năng một cách vội vã, cả về nhận thức lẫn giá cả, theo kiểu “có bệnh thì vái tứ phương”, thử dùng xem sao. Thêm vào đó, việc dùng thực phẩm dài ngày mà giá bình quân mỗi ngày thậm chí cao hơn nhiều lần so với thuốc. Một số người sử dụng 150 đến 200 ngàn đồng mỗi ngày, như vậy nếu thời gian dủng nhiều tháng hoặc nhiều năm thì chắc chắn nhiều người phải bỏ cuộc và bệnh tật cũng đâu lại vào đấy.

Tháng hành động vì chất lượng, vệ sinh, an toàn thực phẩm năm nay, ở Dak Lak có thêm một tín hiệu mới, đó là sự xuất hiện thêm của loại hình dịch vụ thực phẩm chức năng, đó là điều đáng mừng, song cần lưu ý là sự lựa chọn nào cũng nên cân nhắc 2 yếu tố cần và đúng.

Nhằm đảm bảo một môi trường lành mạnh, đảm bảo sức khoẻ và giống nòi cho cộng đồng, mỗi người, mỗi ngành và mỗi địa phương phải thực sự quan tâm và có trách nhiệm đầy đủ trong việc tiếp cận, giám sát và tiêu dùng thực phẩm.

Nguồn: BS. Cao Minh Toàn
(Chủ tịch Hội Châm cứu)

Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh lý khá phổ biến, tỷ lệ trong dân số thay đổi từ 2- 8% tùy theo nghiên cứu. Đây là ...
17/01/2014

Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh lý khá phổ biến, tỷ lệ trong dân số thay đổi từ 2- 8% tùy theo nghiên cứu. Đây là một bệnh mãn tính, do đó bệnh nhân (BN) ĐTĐ cũng có nguy cơ mắc các bệnh khác như những người bình thường. Thậm chí BN ĐTĐ còn là đối tượng nhạy cảm đối với một số bệnh, trong đó có một số bệnh lý xương khớp, do tính ảnh hưởng trên nhiều cơ quan của bệnh ĐTĐ. Bệnh lý xương khớp phổ biến nhất là “bàn chân tiểu đường”, thường là lý do nhập viện của 5 – 10% bệnh nhân đái tháo đường.
Bàn chân của bệnh nhân tiểu đường có thể gặp biến chứng do hai nguyên nhân chính là biến chứng thần kinh và biến chứng mạch máu. Các nguyên nhân này có thể xảy ra riêng rẽ hoặc kết hợp, gây ra những biểu hiện có phần khác nhau. Cụ thể, bệnh cảnh bàn chân tiểu đường theo Edmonds và Foster – 1996 như sau:
Bàn chân do thần kinh:
Biểu hiện:

- Ấm.
- Mạch mu chân bắt được.
- Hệ tĩnh mạch lưng bàn chân dãn.
- Da hồng.

Hậu quả:

- Nốt chai.
- Loét không đau hay đau ít.
- Hoại tử đầu chi.
- Bàn chân Charcot.
- Phù thần kinh.

Bàn chân do mạch máu:

Biểu hiện:

- Lạnh.

- Mạch mu chân không bắt được hay yếu.

- Teo da.

- Giơ cao chân→ da trắng bệch.

- Hạ thấp chân → da tím.

Hậu quả :

- Đi cách hồi.
- Loét có thể đau nhiều.
- Hoại tử đầu chi.
- Đau khi nghỉ ngơi.

Trên thực tế các bệnh nhân thường gặp biến chứng bàn chân do cả hai nguyên nhân trên nên những biểu hiện thường đan xen nhau. Ngoài ra còn có một dạng bàn chân đái tháo đường nữa là “bàn chân Charcot” với các đặc điểm sau:

- Tổn thương thần kinh sợi lớn làm co rút gân Achilles và biến dạng duỗi khớp cổ - bàn chân.

- Tổn thương thần kinh sợi nhỏ gây biến dạng ngón chân hình búa (hammer toes).

- Các biến dạng làm gia tăng nguy cơ loét. Vị trí hay loét thường là khớp bàn – đốt, khớp liên đốt và khớp cổ chân, gót chân.

- Lâm sàng: khởi đầu bàn chân có thể viêm tấy nhưng không đau.

- XQuang hoặc CTscanner: có hình ảnh loãng xương; hủy xương hay gãy xương.

Address

F 312 A2 Phú Thượng , Tây Hồ
Hanoi
10000

Telephone

043 995 3637

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Cộng đồng Dược Phẩm và Thực Phẩm Chức Năng posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Practice

Send a message to Cộng đồng Dược Phẩm và Thực Phẩm Chức Năng:

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram