06/09/2025
Part 3 - Ca(OH)2 không chỉ đơn giản là bột trộn với nước!
Ca(OH)2 có thể đi cùng với chất mang (vehicle) là chất lỏng, chất nhớt hoặc dầu. Phân loại như vậy vì mỗi chất mang sẽ ảnh hưởng đến độ hòa tan và khả năng phóng thích ion của Ca(OH)2.
Khi Ca(OH)2 được trộn với chất mang dạng nước, ion Ca2+ và OH- được giải phóng nhanh chóng. Loại chất mang này có độ hòa tan cao khi paste khi tiếp xúc trực tiếp với mô và dịch mô, khiến nó nhanh chóng được hòa tan và hấp thụ bởi các đại thực bào. Ống tủy có thể bị trống trong thời gian ngắn. Về mặt lâm sàng, điều này có nghĩa là ống tủy phải được đặt thuốc lại nhiều lần cho đến khi đạt được hiệu quả mong muốn, do đó làm tăng số lần hẹn. Một số chất mang dạng nhớt giải phóng ion Ca2+ và OH- chậm hơn trong thời gian dài. Chúng làm giảm độ hòa tan của paste so với chất mang nước, có thể là do trọng lượng phân tử cao (1). Với chất mang dầu, chúng còn hòa tan chậm hơn nữa, và cũng phóng thích ion chậm rãi hơn. Tuy nhiên, khó hòa tan thì cũng khó làm sạch hơn, vì vậy khi dùng gốc nhớt hoặc dầu, chúng ta càng cần phải cẩn trọng và sử dụng hết tất cả những gì đang có để làm sạch ống tủy!
Bên cạnh chất mang, nhiều bác sĩ cũng quan tâm đến việc phối hợp Ca(OH)2 với các chất khác, tiêu biểu có camphorated paramonochlorophenol, chlorhexidine, iodoform. Có nhiều nghiên cứu về các sự phối hợp này, nhưng kết quả không nhất quán (lúc tốt hơn, lúc thì bằng với Ca(OH)2 không trộn gì) (2) (3) (4). Do đó việc sử dụng các kết hợp theo cá nhân mình nghĩ là tùy theo sở thích và thói quen chứ không có 1 hướng dẫn cụ thể nào cả!
Theo kinh nghiệm cá nhân, mình thường dùng UltraCal XS (gốc nước) trong 2 tuần đầu cho các ca nhiễm trùng lớn hoặc có lỗ dò để giải phóng nhanh ion, giống như cử 1 đạo quân lớn đi dẹp loạn vi khuẩn vậy, sau đó sẽ tiếp tục sử dụng Metapex (gốc dầu + iodoform) để kiểm soát nhiễm trùng tốt hơn, vì paste này có độ cản quang tốt (5) giúp mình kiểm soát tốt hơn việc đặt thuốc, đồng thời có thêm i ốt thì mình thấy “an tâm” hơn về khoản diệt khuẩn. Gốc dầu giải phóng ion chậm và lâu tan nên đôi khi mình để hơn 1 tháng nhằm kiểm soát triệt để triệu chứng sưng, đau, lỗ dò rồi mới trám bít ống tủy! Tất nhiên là với những ca không triệu chứng thì vẫn nên chữa tủy 1 lần hẹn nhé cả nhà!
-----
(1) Fava, L. R., & Saunders, W. P. (1999). Calcium hydroxide pastes: classification and clinical indications. International endodontic journal, 32(4), 257–282.
(2) Patel, S., Saberi, N., Pimental, T., & Teng, P. H. (2022). Present status and future directions: Root resorption. International endodontic journal, 55 Suppl 4(Suppl 4), 892–921.
(3) Zancan, R. F., Vivan, R. R., Milanda Lopes, M. R., Weckwerth, P. H., de Andrade, F. B., Ponce, J. B., & Duarte, M. A. (2016). Antimicrobial Activity and Physicochemical Properties of Calcium Hydroxide Pastes Used as Intracanal Medication. Journal of endodontics, 42(12), 1822–1828.
(4) Jara, M., Salcedo-Moncada, D., Ayala, G., Watanabe, R., Alvítez-Temoche, D., & Mayta-Tovalino, F. (2020). Antibacterial Efficacy of Calcium Hydroxide with Iodoform versus Calcium Hydroxide with Camphorated Paramonochlorophenol as Intrachannel Pastes on an Enterococcus faecalis Biofilm: A Comparative In Vitro Study. Journal of International Society of Preventive & Community Dentistry, 10(5), 555–560.
(5) Ordinola-Zapata, R., Bramante, C. M., García-Godoy, F., Moldauer, B. I., Gagliardi Minotti, P., Tercília Grizzo, L., & Duarte, M. A. (2015). The effect of radiopacifiers agents on pH, calcium release, radiopacity, and antimicrobial properties of different calcium hydroxide dressings. Microscopy research and technique, 78(7), 620–625.