24/11/2025
Khôi phục sự phát triển của đàn bò sữa
rong giai đoạn 2010-2015, ngành bò sữa Việt Nam từng tăng trưởng “nóng” với tốc độ đàn bò đạt tới 15%/năm, nhiều địa phương như Mộc Châu (Sơn La), Ba Vì (Hà Nội), Củ Chi (TP. Hồ Chí Minh) trở thành “thủ phủ bò sữa”, mang lại sinh kế thịnh vượng cho hàng chục nghìn hộ chăn nuôi. Tuy nhiên, bước sang giai đoạn 2020-2024, bức tranh đã chuyển sang nhiều “gam trầm”, đàn bò sữa cả nước chỉ còn khoảng 326.000 con, TP. Hồ Chí Minh giảm tới 68% so với năm 2015.
Chăn nuôi bò sữa đứng giữa muôn vàn khó khăn
Theo TS. Lương Anh Dũng, Phó Giám đốc Trung tâm Giống gia súc lớn Trung ương cho biết, năm 2024, tổng đàn bò sữa Việt Nam ước đạt 326.000 con, sản lượng sữa tươi đạt 1,21 triệu tấn. Nếu tính khoảng 45% là bò cái vắt sữa, năng suất bình quân đạt 8.180 kg/bò vắt sữa/năm.
Việt Nam không có ngành chăn nuôi bò sữa truyền thống và cũng không có giống bò sữa bản địa chuyên dụng. Các giống hiện nay đều nhập khẩu. Trước năm 2010, hơn 80% đàn bò sữa cả nước là bò lai HF (F1, F2, F3), bò HF thuần chỉ dưới 20%. Từ năm 2010 đến nay, trên 50% đàn bò là bò HF thuần và bò lai HF đã tiệm cận thuần. Mức tiêu thụ sữa của Việt Nam còn rất thấp. Hiện, bình quân mỗi người Việt chỉ tiêu thụ 24 lít/năm, trong khi thế giới đạt 200-250 lít/người/năm (New Zealand đạt 476 lít/người/năm). Việt Nam thấp hơn mức tiêu thụ sữa bình quân của châu Á tới 72% và thấp hơn thế giới 77%.
Ông Lê Việt Hải, Phó Chi Cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y TP. Hồ Chí Minh cho biết, thành phố từng là trung tâm lớn của ngành bò sữa, đóng góp quan trọng cho nguồn cung sữa tươi trong nước. Tuy nhiên, đàn bò sữa đã giảm mạnh từ 117.000 con năm 2015 xuống còn 37.288 con năm 2025, giảm 68,19%. Trong giai đoạn 2016-2025, sản lượng sữa giảm bình quân 7,72%/năm. Nguyên nhân do đô thị hóa thu hẹp quỹ đất, chi phí sản xuất tăng cao, cạnh tranh mạnh từ sữa nhập khẩu giá thấp, khiến nhiều hộ nhỏ lẻ không còn khả năng duy trì.
TS. Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam cho rằng, tốc độ tăng trưởng sản lượng sữa tươi đã giảm mạnh, chỉ còn 3,4%/năm giai đoạn 2020-2024. Nguyên nhân chính đến từ tình trạng sữa nhập khẩu giá rẻ cạnh tranh quyết liệt với sữa tươi trong nước, trong khi giá thu mua sữa nguyên liệu không ổn định, nhiều doanh nghiệp thiếu mặn mà với nông hộ. Thực tế này đang khiến hàng chục nghìn hộ chăn nuôi rơi vào cảnh khó khăn, thậm chí bỏ đàn bò.
Lượng sữa nguyên liệu và thành phẩm nhập khẩu vào Việt Nam ngày càng tăng cao. Sữa và các sản phẩm từ sữa phát triển quá nóng, gây nhiễu loạn thị trường. Sản phẩm sữa kém chất lượng tràn lan, gây sức ép không nhỏ với các dòng sản phẩm chất lượng. Trong khi đó, việc thu mua sữa tươi nguyên liệu không được các doanh nghiệp mặn mà càng thêm khó khăn cho người chăn nuôi. Ngược lại với hai chỉ tiêu trên, năng suất sữa của đàn bò trong nước tăng rất nhanh, từ trung bình 5 tấn/con/chu kỳ giai đoạn 2010-2015 đã tăng lên 7 tấn/con/ chu kỳ trong giai đoạn 2020-2024. Việt Nam là nước có năng suất bò sữa cao nhất trong khu vực.
Dẫn kinh nghiệm từ các nước lớn trên thế giới cho thấy, ngành công nghiệp sữa phát triển đúng nghĩa phải có ngành chăn nuôi bò và gia súc đủ mạnh cho sữa phát triển. Trong khi thị trường sữa của Việt Nam còn rất lớn, bình quân sữa/người dân còn rất thấp.
Chính sách chưa theo kịp thực tiễn
PGS.TS. Phạm Kim Đăng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho biết, ngành chăn nuôi đã có hệ thống chính sách khá đầy đủ: Luật Chăn nuôi 2018; Chiến lược phát triển chăn nuôi 2021-2030, tầm nhìn 2045; cùng 5 đề án trọng tâm về giống, thức ăn, chuồng trại – xử lý chất thải, giết mổ – chế biến, khoa học công nghệ; Nghị định 106 và Nghị định 116 hỗ trợ hiệu quả; Luật Đất đai 2024 lần đầu ghi nhận đất chăn nuôi tập trung.
Tuy nhiên, tổng đàn và sản lượng bò sữa vẫn tăng chậm, không đạt mục tiêu 2025, do khó khăn về đất đai, nhu cầu tiêu dùng hạn chế, xu hướng giảm chăn nuôi nông hộ và ít người trẻ tham gia. Trong khi đó, các Tập đoàn lớn như Vinamilk, TH True Milk… muốn mở rộng nhưng vướng thủ tục đất đai. Trước những hạn chế đó không phải cứ tăng đàn bò là thành công. Ngành cần tập trung vào năng suất, chất lượng và liên kết chuỗi, đồng thời tháo gỡ cơ chế đất đai cho doanh nghiệp, củng cố các HTX và hộ nông dân. Ông cũng lưu ý, bò sữa là ngành hàng hiếm hoi có liên kết chuỗi hoàn chỉnh, nhưng cần nông dân chuyên nghiệp hơn, đảm bảo chất lượng và ổn định nguồn cung. Cần truyền thông rõ ràng để phân biệt sữa tươi tiệt trùng và sữa hoàn nguyên, khuyến khích tiêu dùng nội địa.
Về giống, ông đề xuất công nhận giống HF tại Việt Nam, áp dụng công nghệ chọn lọc hiện đại để chủ động nguồn giống thay vì phụ thuộc nhập khẩu. Trong bối cảnh đất đai hạn chế, định hướng ngành sữa không chỉ tăng số lượng mà phải chú trọng nâng cao năng suất, giá trị và chất lượng, học theo kinh nghiệm các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đan Mạch.
Theo ông Lê Việt Hải, Phó Chi Cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y TP. Hồ Chí Minh, chăn nuôi bò sữa là ngành đòi hỏi đầu tư lớn, tính chuyên nghiệp cao. Tuy nhiên, hiện nay diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm, đất trồng cỏ hạn chế, quy mô chăn nuôi nông hộ nhỏ, chi phí sản xuất cao do nhiều chi phí trung gian, trong khi việc tiêu thụ sản phẩm chưa ổn định, gây nhiều khó khăn cho người chăn nuôi. “Sau khi Việt Nam gia nhập CPTPP và EVFTA, ngành bò sữa đối mặt cả cơ hội lẫn thách thức. Để cạnh tranh hiệu quả, chăn nuôi bò sữa TP. Hồ Chí Minh cần đổi mới mạnh mẽ về tổ chức sản xuất, quy mô, công nghệ và thị trường tiêu thụ”, ông Hải nói.
Hiện nay, phương thức chăn nuôi vẫn mang tính truyền thống, nhiều hộ chỉ tập trung khai thác sữa và bán con giống, chưa chú trọng quản lý đàn giống, dinh dưỡng theo chế độ phối trộn hoàn chỉnh (PMR, TMR), cũng như điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng tại nông hộ, dẫn tới tình trạng stress nhiệt ở bò. Giá nguyên liệu đầu vào tăng cao trong khi giá thu mua sữa tươi ổn định hoặc tăng rất ít (Vinamilk tăng 0,1%, Friesland Campina giảm 0,1%), khiến nhiều hộ chăn nuôi nhỏ lẻ không còn lãi, dẫn tới giảm đàn bò sữa nhanh chóng.
“Nhất là vẫn chưa có các quy định về điều kiện kinh doanh và chế biến sữa phù hợp, cũng như cơ chế khuyến khích phát triển nguồn nguyên liệu trong nước. Điều này khiến việc nhập khẩu sữa bột hoàn nguyên trở nên thuận lợi hơn so với chế biến sữa tươi, làm doanh nghiệp không mặn mà mua sữa của nông dân”, ông Hải cho hay.
Ông Hải cho hay, Chính phủ cần ban hành Chương trình Quốc gia về phát triển ngành sữa bền vững tại Việt Nam tương tự như Quyết định số 167/2011/QĐ-TTg ngày 26/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp và chính sách phát triển chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam thời kỳ 2001- 2010.
Các Bộ, ngành liên quan đến ngành sữa cần có sự thống nhất trong xây dựng, ban hành các chính sách, pháp luật về điều kiện sản xuất kinh doanh của cơ sở chế biến, kinh doanh sữa, gắn với phát triển nguồn nguyên liệu sữa trong nước; quy định minh bạch, rõ ràng về tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật của từng loại sản phẩm sữa phù hợp với thực tế Việt Nam… để người tiêu dùng rễ nhận biết trong lựa chọn sản phẩm và thuận tiện cho công tác quản lý, tránh gian lận thương mại.
Chuẩn hóa hệ thống quản lý giống, thống nhất sử dụng cách ghi chép nhằm phục vụ tốt việc đánh giá chất lượng giống, trong đó ứng dụng công tác quản lý bò sữa theo chương trình cải thiện chất lượng đàn bò sữa (DHI), làm cơ sở chọn lọc và xây dựng đàn giống bò sữa. Triển khai mạnh mẽ Chương trình sữa học đường, sử dụng 100% sữa tươi nguyên liệu sản xuất trong nước. Đây là giải pháp “kép” vừa cải thiện dinh dưỡng cho thế hệ trẻ, vừa tạo điều kiện để phát triển đàn bò sữa trong nước, giảm sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.
Doanh nghiệp và nông dân đẩy mạnh liên kết
Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn, nhiều chuyên gia cho rằng ngành bò sữa Việt Nam cần chuyển từ sản xuất manh mún, nhỏ lẻ sang mô hình chuỗi liên kết khép kín. TS. Nguyễn Xuân Dương nhấn mạnh: “Doanh nghiệp phải là đầu tàu về vốn, công nghệ và thị trường; nông dân là lực lượng trực tiếp sản xuất. Cần quy định rõ tỷ lệ sử dụng nguyên liệu sữa tươi nội địa trong chế biến, để bảo vệ người chăn nuôi”.
Theo đó, doanh nghiệp cần ký hợp đồng thu mua dài hạn, cam kết về số lượng, chất lượng và giá cả minh bạch, đồng thời hỗ trợ kỹ thuật, giống, thức ăn và công nghệ bảo quản để nâng cao năng suất, chất lượng sữa tươi. Về phía nông dân, thay vì chăn nuôi tự phát dẫn tới chất lượng sữa không ổn định và chi phí cao, cần tham gia tổ hợp tác, hợp tác xã, áp dụng quy trình chăn nuôi tiên tiến, đáp ứng tiêu chuẩn của thị trường.
Từ góc nhìn doanh nghiệp, ông Ngô Minh Hải, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn TH nhấn mạnh, Chương trình sữa học đường là cơ hội tiêu thụ hàng nghìn tấn sữa tươi mỗi ngày, tương đương nhu cầu từ hàng trăm nghìn con bò sữa. “Đây là cơ hội vàng mà ngành sữa trong nước cần nắm lấy, thay vì để rơi vào tay doanh nghiệp nước ngoài,” ông nói. Từ năm 2008 TH đã tiên phong phát triển sữa tươi sạch, góp phần nâng mức tiêu thụ bình quân từ 12 lít lên khoảng 36 lít/người/năm.
Hiện nay, tỷ lệ sữa tươi nguyên liệu trong các sản phẩm sữa dạng lỏng của Tập đoàn đạt 60%, và mục tiêu đến năm 2030 sẽ nâng lên 100%, đồng thời tăng gần gấp đôi tổng đàn bò, đạt khoảng 1,2 triệu con. Để hiện thực hóa mục tiêu này, theo ông Hải, ngành sữa cần sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp lớn và nông hộ, cùng với chính sách ưu đãi về thuế, đất đai và hỗ trợ kỹ thuật. Đây là yếu tố then chốt để nông dân tham gia chuỗi sản xuất công nghệ cao, đưa ngành bò sữa Việt Nam phát triển bền vững.
Để ủng hộ nông dân chăn nuôi bò sữa, đại diện Vinamilk cho biết, doanh nghiệp đang thu mua sữa của các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ ở mức cao hơn giá sữa trong các trang trại do Vinamilk quản lý và giá đã tăng 12% từ 2020 đến giờ. Phía Vinamilk cũng đề nghị các tỉnh sớm triển khai quy hoạch chăn nuôi trồng trọt tập trung, tránh bị ảnh hưởng bởi quá trình đô thị hóa, lúc đó mới có nguồn lực về đất, và thức ăn thô xanh để phát triển đàn bò.
Về phía nông dân, đại diện hộ chăn nuôi bò sữa đến từ vùng Vĩnh Thịnh-Vĩnh Tường (trước là tỉnh Vĩnh Phú, nay là tỉnh Phú Thọ) kiến nghị Nhà nước ưu tiên quỹ hoạch các vùng chăn nuôi bò sữa dạng lõi, đảm bảo không bị đô thị hóa, tránh trường hợp “quy hoạch xong lại đô thì hóa”. Ông cũng đề xuất cân đối việc nhập khẩu sữa bột từ nước ngoài, có thể điều chỉnh giảm tỷ lệ nhập khẩu sữa ngoại để khuyến khích nông dân tăng sản xuất sữa tươi.
Nguồn : Thu Hằng