14/07/2023
🌺 ĐIỀU GÌ KHIẾN MỘT NGÔN NGỮ KHÓ KHĂN?
Khi mới bắt đầu tò mò về tiếng Ả Rập, tôi vô cùng hoảng hốt trước một sự thật điên đầu: chữ viết Ả Rập hầu như toàn-phụ-âm (!)
Ba nguyên âm chính (a, i, u) thường xuyên vắng mặt và bắt ta phải đoán. Tức là bạn phải đủ kiên nhẫn để đọc cả câu, cả đoạn, phải nhanh nhạy hiểu ý người nói và đủ sức bao quát được bối cảnh của toàn câu chuyện.
Ngược với tiếng Ả Rập là thách thức khi tôi học tiếng Hà Lan. Khó khăn không phải "bối cảnh" mà là "cấu trúc". Ví dụ, các động từ bị chặt ra từng khúc, lộn đầu đuôi, hoặc mỗi khúc một nơi. Bộ não phải như một cô Tấm kiên nhẫn, phân loại và xếp từ siêu nhanh, đúng vị trí thì mới hiểu người kia nói gì.
Cũng giống như hồi còn đi học tôi và bạn bè từng phải chiến đấu với tiếng Anh. Hệ ngôn ngữ này thách thức người Việt bởi sự khác biệt khủng khiếp về ngữ pháp, các thì thời gian, thành ngữ, cách phát âm, thứ tự từ, cộng thêm vô số quy tắc và ngoại lệ. Sự khác biệt về hệ ngôn ngữ chính là lý do khiến người Hà Lan, Đức, Pháp… học tiếng Anh dễ dàng hơn tôi và bao người Việt khác.
---
🌺 NGÔN NGỮ BIẾN ĐỔI BỘ NÃO CHÚNG TA
Vậy một cuộc chinh phục ngoại ngữ, ngoài mục tiêu để giao tiếp ra thì còn có tác dụng gì không?
Trong ảnh là nghiên cứu mới nhất của viện Max Planck về sự khác biệt của bộ não khi ta nói tiếng Đức và tiếng Ả Rập.
Hãy tưởng tượng một dự án xây dựng lớn có khả năng biến đổi bộ mặt thành phố nơi bạn đang sống, ví dụ, bằng hàng loạt đường cao tốc nối các công trình kiến trúc trọng điểm. Ngôn ngữ cũng vậy. Nó có thể biến đổi bộ não bằng việc làm dày lên các vùng chất xám (công trình kiến trúc) và làm dày lên các đường chất trắng (đại lộ và cao tốc).
Tiếng Đức chú trọng vào "cấu trúc" câu nên các kết nối tập trung ở dọc bán cầu não trái. Tiếng Ả Rập chú trọng "bối cảnh" nên các kết nối xuyên ngang qua cả hai bán cầu. Bộ não phải huy động tối đa những thông tin thứ cấp và gián tiếp từ nhiều ngóc ngách khác nhau, theo đúng nghĩa đen, để tạo thành một thông điệp có nghĩa.
Vậy điều gì xảy ra trong não của những người biết nhiều ngôn ngữ?
Các nhà khoa học cho rằng, đặc biệt là với trẻ con, não của bé trở nên nhanh nhạy hơn, linh hoạt hơn, có sức tập trung và khả năng điều tiết cao hơn. Với sự dày lên của chất xám và chất trắng, việc bé phải xử lý nhiều thứ tiếng khiến bộ não như được “cài thêm nhiều phần mềm”, linh hoạt với các kết nối cả dọc lẫn ngang bán cầu. Bộ não không những có thêm “nhiều tính năng” mà còn trở nên sắc bén trong việc phân biệt và lựa chọn thông tin quan trọng trong thời gian ngắn nhất.
---
🌺 NGÔN NGỮ LÀ CÔNG CỤ CỦA TƯ DUY
Như vậy, một ngoại ngữ khó hay dễ lại tùy vào tiếng mẹ đẻ, bởi nó phụ thuộc vào sự khác biệt lớn hay nhỏ mà bộ não cần vượt qua. Khả năng “vượt khó” đó dần trở thành một kỹ năng, vươn ra ngoài phạm vi ngôn ngữ, góp phần khiến suy nghĩ và ứng xử cũng trở nên linh hoạt, hiệu quả và bao quát hơn.
Chính vì thế, môi trường đa ngôn ngữ giúp bé trau dồi năng lực của tư duy đa văn hoá và công dân toàn cầu. Khi lớn lên và hòa mình vào môi trường quốc tế, năng lực đó có thể là biến thành khả năng định vị "bối cảnh", read-the-air, cảm nhận được không khí của buổi họp, nắm bắt được cảm xúc đồng nghiệp và biết rằng điều gì (không) nên nói. Đó cũng có thể là khả năng đổi "cấu trúc", nhanh chóng chuyển hệ điều hành, xử lý hiệu quả các quy trình phức tạp, giải quyết công việc theo đúng quy tắc, thẳng thắn, trực diện, không úp mở nếu hoàn cảnh yêu cầu.
Một nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực này bắt đầu với 853 em nhỏ 11 tuổi. Hơn 60 năm sau, khi đã thành những ông bà cụ tuổi 70, họ lại được kiểm tra khả năng tư duy thêm một lần nữa. Khi đã loại bỏ các yếu tố có thể làm nhiễu kết quả như trình độ học thức, các nhà nghiên cứu kết luận rằng việc sử dụng thành thạo hai ngôn ngữ khiến khả năng tập trung, khả năng đọc hiểu và điểm số thông minh trở nên vượt trội.
---
🌺 NGÔN NGỮ LÀ CÔNG CỤ CỦA KIẾN TẠO
Như vậy, ngôn ngữ không chỉ là công cụ cho nhu cầu giao tiếp. Đó là lý do loài người dù có bộ gien 99.9% giống nhau nhưng có hơn 7000 ngôn ngữ khác nhau. Đó là lý do một quốc gia biển đảo như Papua New Guinea có tới 850 ngôn ngữ riêng, làng này nhìn thấy làng kia qua một con sông nhưng vẫn không hiểu nhau. Đó là lý do ta vẫn chưa có một tiếng nói toàn cầu để ai sinh ra cũng thạo.
Bởi về mặt tiến hóa, ngôn ngữ xuất hiện không chỉ để con người hiểu lẫn nhau. Nó còn là công cụ để ta hiểu chính mình và trở thành một nhân tố tích cực trong sự phát triển của xã hội. Đó là lý do những người đa ngôn ngữ cảm thấy như mình có thêm nhiều cách nhìn cuộc sống khác nhau, thậm chí tạo ra những sản phẩm khác nhau khi tư duy bằng ngôn ngữ khác nhau.
Sự vô biên của "bối cảnh", "cấu trúc" và "từ vựng" trong mỗi thứ tiếng khiến con người có thể phối hợp để KIẾN TẠO ra vô biên các sắc thái của suy nghĩ và ý tưởng. Khối kiến thức ấy chuyển hóa thành hành động, rồi tác động ngược lại tư duy, tạo ra một vòng xoáy mạnh mẽ của đổi thay và phát triển. Khả năng tạo ra sự-đa-dạng-không-giới-hạn ấy của ngôn ngữ được ví như sự đa dạng sinh học, cung cấp nguồn "gien"-đa-dạng-không-giới-hạn cho văn hóa, khiến tư duy và xã hội con người bứt phá hơn hẳn những giống loài khác trong quá trình tiến hóa.
Chính vì thế, việc học một ngôn ngữ không nhất thiết chỉ có mục đích giao tiếp. Ở bất kỳ cấp độ khó dễ nào, việc học một tiếng nói mới cũng như bước vào một phòng gym. Nó cho phép mỗi cá nhân được tham gia vào việc tự biến đổi bộ não của mình mỗi ngày, chủ động khiến nó trở nên đa dạng hơn, giàu có hơn trong quá trình kiến tạo bản sắc và năng lực.
Bởi thế giới ngoài kia không chỉ “phẳng” về thông tin, mà còn “lồi lõm” về bất công cơ hội. Để bay cao trong thế giới ấy chắc chắn không thể thiếu sự linh hoạt về tư duy mà quá trình chinh phục thứ ngoại ngữ ấy cho ta trực tiếp thừa hưởng.
-----------------------
Nguồn: Fb Nguyen Phuong Mai.