11/09/2025
Vì sao lựu lại tương ứng với các sephirot?
Cấu trúc đồ hình Tree Of Life trên lá bài này là ý tưởng từ học giả Philip Carter, thành viên của hệ thống Tam Điểm Úc là Center for Fraternalism l. Ngoài ra còn nhiều học giả khác đã bàn rất nhiều về cấu trúc này. Tuy nhiên, tôi (tác giả) đã hiệu chỉnh riêng một phiên bản với vài thay đổi về cách bố trí nhằm phù hợp với lời giải thích của Waite.
Chú ý là các nút đánh số theo thứ tự của Sephirot từ 1 đến 10, 11 là vị trí của Daat. Các đường dẫn màu xanh (path) chỉ mang tính minh họa thôi chứ không đầy đủ. Toàn bộ các từ khóa bên trên của Waite đều dẫn đến cấu trúc Tree Of Life trong lá bài này. Không phải ngẫu nhiên mà Waite nói đây là lá bài quang trọng nhất và thần thánh nhất trong hệ thống 22 lá Arcana Major ("There are some respects in which this card is the highest and holiest of the Greater Arcana.").
Sơ đồ bên dưới được hình thành từ các vị trí chứa biểu tượng linh thiêng (quả cầu ở mũ, vị trí chữ thập mặt trời, quyển Tora, mặt trăng) và 7 quả lựu trên bức màng.
Bảy quả lựu đại diện cho các sephirot thứ 1,2,3,4,5,7,8; mặt trăng đại diện cho sephirot thứ 10, sách Tora đại chiện cho sephirot thứ 9, chữ Thập Mặt Trời đại diện cho sephirot thứ 6, quả cầu trên mũ đại diện cho sephirot thứ 11.
Hình ảnh cây cọ trên bức màng cũng được lấy từ hình ảnh trong sách Kinh Thánh như 1Kings 6:33-35, 1Kings 7:36 nói rằng hình ảnh của cây cọ được khắc trên cửa vào phòng thờ Holy of Holies trong đền. Hình ảnh này theo O'Neil là tham chiếu từ nhà huyền học Levi, trong cuốn Ritual of High Magic, chương 22.
Hình ảnh bức màng phía trước, che mặt biển ở phía sau được rút từ hình ảnh hồ nước tẩy rửa trong Kinh Thánh 1 Kings 7:23-26 "And he made a molten sea, ten cubits from the one brim to the other: it was round all about, and his height was five cubits: and a line of thirty cubits did compass it round about...", phục vụ trong lễ tẩy rửa quan trọng của người Do Thái.
Hình ảnh mặt nước ở phía sau bức màng là tương ứng với đường biên Veil of Parakeeth. Quan sát và so sánh vị trí các nút sephirot trong sơ đồ Tree Of Life và sơ đồ tương ứng trên lá bài. Đường mặt nước tương đương vị trí Veil of the Parakeeth, chia Tree Of Life thành 2 phần: phần trên gồm các sephirot 1,2,3,4,5,6; phần dưới gồm 7,8,9,10. Các phân tích ở lá này cần nhắc đến khái niệm Triad (bộ ba).
Các sephirot 1,2,3 tạo thành tam giác trên cùng gọi là Supernal Triad, các sephirot 4,5,6 tạo thành tam giác ở giữa gọi là Ethical Triad, các sephirot 7,8,9 tạo thành tam giác dưới cùng gọi là Lover Triad. Veil of Ain phân chia giữa hư không - ánh sáng và Supernal Triad, Veil of Abyss phân chia giữa Supernal Triad và Ethical Triad ngay vị trí của Daat, Veil of Parakeeth phân chia giữa Ethical Triad và Lover Triad.
Tại sao Waite lại nhấn mạnh Veil of Parakeeth chứ không phải bất cứ Veil nào khác ? Là vì Parakeeth có nghĩa là "nhớ lấy ngươi là ai" (- "remember who you are"), đây là đường biên của cái có thể nhận thức được, và cái thần thánh không thể nhận thức. Đây là ranh giới giữa cái số 12 tri thức đầy đủ và số 13 tri thức không thể với đến. Nó gợi nhớ đến giới hạn tri thức đã phân tích ở các phần trên. Đường biên Veil of Parakeeth còn là đường biên của Higher Triad và Lower Triad.
Vì sao lựu lại tương ứng với các sephirot?
Lựu là bằng chứng về miền đất hứa trên chuyến hành trình của Moses. Lựu được nhắc đến như biểu hiện của sự sùng tín và tiên tri, nó được thêu trên bộ lễ phục dành cho Kohen Gadol, chức danh cao nhất đại tư tế High Priest của Do Thái Giáo, còn được biết với tên "Robe of the Ephod" như sách Kinh Thánh Exodus 28:33-34 đã dẫn. Có 200 quả lựu được khắc thành phù điêu trên 2 cột Jachin và Boaz theo như Kinh Thánh Book of Kings 7:13-22. Quả lựu còn được biết đến với số lượng hạt không đổi 613, một con số thần thánh của người Do Thái tương ứng với 613 Mitzvot - Điều răn của chúa trời trích từ sách Torah, còn được biết với cách gọi là "Law of Moses" (Torat Mosheh, תורת משה), "Mosaic Law", "Greater Law", "Secret Law", "Sinaitic Law," hay đơn giản là "The Law". Chú ý là trong lá này, Waite cũng đã nhắc đến The Law: "...when he reads the Law she gives the Divine meaning...", dịch "khi hắn đọc bộ Luật thì cô ta sẽ báo lời tiên tri...". Bộ Luật này chính là quyển sách có chữ Tora trên tay của nữ tu; và bộ luật này chính là quyển sách tiên tri mà Waite đề cập đến: The Torah. The Torah chính là sách Kinh Thánh của Do Thái Giáo, tương ứng với 5 cuốn đầu tiên của Kinh Thánh Thiên Chúa Giáo: Sáng Thế Ký, Xuất Hành Ký, Levi Ký, Dân Số Ký, Đệ Nhị Luật Ký, nằm trong Kinh Cựu Ước.
Vì vậy, quyển sách Tora trên tay nữ tu không đâu xa lạ, chính là ám chỉ Kinh Thánh Cựu Ước. Chú ý rằng từ đồng âm Torah = Tora và là đảo ngữ của Taro = Tarot, mà tôi đã có lần nói đến trong bài nguồn gốc của từ Tarot. Một đặc điểm gematria nữa là cụm "613 Mitzvot" có từ Mitzvot vốn viết đầy đủ là Taryag mitzvot, mà gematria của Taryag (TaRYaG) cũng đúng bằng 613. Số 613 còn liên quan một điểm nữa, đó là dãy khăn nút cầu nguyện (tzitzit) của người Do Thái. Dãy nút này liên hệ với 613 lời răn bằng sự kết hợp của gematria của từ tzitzit là 600, mỗi băng có 8 dãy lụa, mỗi 2 dãy lụa có 5 thắt, tổng là 8 + 5 = 13, và 600 + 13 = 613 điều răn, như theo ghi chép của nhà hiền triết Shlomo Yitzhaki (Thế kỷ 10). Ta gặp lại con số 13 hoàn hảo thần thánh.
Waite nói về cuộn sách như sau "The scroll in her hands is inscribed with the word Tora, signifying the Greater Law, the Secret Law and the second sense of the Word. It is partly covered by her mantle, to shew that some things are implied and some spoken.", dịch "cuộn sách trong tay bà ghi chữ Tora, chính là ám chỉ Luật Lớn, Luật Bí Mật và tầng nghĩa thứ hai của Từ Ngữ. Nó được bao phủ bởi những tầng nghĩa bảo vệ, và chỉ thể hiện các chân ngôn qua những ẩn ngữ".
Vì sao Tora là Luật Lớn, vì đây là Luật duy nhất do Thiên Chúa tự mình khải thị; vì sao Tora là Luật Bí Mật, vì đây là Luật được hiểu qua các ẩn ngữ, vì sao Tora là tầng nghĩa thứ hai của Từ Ngữ, vì luận giả Luật cần áp dụng các phép Gematria. Điều này cần liên hệ với câu đầu tiên của Tạo Thư Sepher Yetzirah 1:1 trong đó khải thị của Chúa Trời thông qua ba sách: Sepher (qua chữ viết), Sephar (qua con số), Sippur (qua giao tiếp)
Tầng nghĩa thứ hai chính là ám chỉ cách khải thị thứ hai trong ba cách, đó là Sephar, qua phép số Gematria. Tôi luôn nhắc các bạn rằng muốn hiểu rõ về Golden Dawn cần hiểu rõ về Kabbalah, muốn hiểu rõ về Kabbalah cần hiểu rõ về Gematria. Đây chính cách hiểu chú giải "mystery, wisdom, science" của Waite mà khá nhiều sách hướng dẫn lầm. Lá này ám chỉ sự khải thị, tiên tri của đấng bên trên thông qua các bí thư một cách bí mật nhiều tầng nghĩa chứ không khải thị một cách minh bạch, đơn giản. Sự khải thị này cần sự tìm tòi, nghiên cứu để nhận ra được chân ngôn của Đấng Chúa Trời. Nó khác với các kiểu ý giải hiện nay của lá này về khoa học, bí mật, hoặc các quan niệm bất khả tri. Nó là sự yêu cầu tìm tòi trong các chỉ dẫn, giải nghĩa các ẩn ngữ để tìm ra chân ngôn. Nó không phải là sự ngăn trở, phủ định mọi tìm hiểu, với lời dối rằng chẳng bao giờ đạt được tri thức, hiểu được chân ngôn của Đấng Tối Cao như hầu hết các sách Tarot hiện nay. Điển hình là 78 degree of Wisdom của Pollack, tôi dẫn trích từ cuốn này về lá bài "The divinaotory meanings of the High Priestess deal first with a sense of mystery in life, both things we do not know, and things we cannot know". Điều này thể hiện rõ trong quan niệm của Waite về tri thức, khác với các học giả theo chủ nghĩa hoài nghi đang chiếm ưu thế vào thời kỳ này, Waite nói riêng và hội Golden Dawn nói chung có khái niệm rất rõ ràng về khả năng đạt được tri thức của con người thông qua các nghiên cứu về huyền học. Tất nhiên, tri thức này là vô biên với con người để hiểu được đấng tối cao, nhưng có giới hạn về lý thuyết với tri thức hoàn mỹ của đấng tối cao.
PN