25/05/2023
Lý thuyết bổ trợ chính cho liệu pháp tâm động học có nguồn gốc từ lý thuyết phân tâm học cổ điển. Có bốn trường phái lý thuyết tâm động chính, mỗi trường phái đều có sức ảnh hưởng đến liệu pháp tâm động học (Trên thực tế, cũng có một số trường phái lý thuyết nhỏ khác chưa được công nhận chính thức từ hiệp hội phân tâm thế giới IPA mặc dù chúng vẫn được áp dụng và thực hành ở một số cộng đồng người nói tiếng Pháp hoặc tiếng Tây Ban Nha). Bốn trường phái đó là: Freudian, Tâm lý bản ngã (Ego Psychology), Quan hệ đối tượng và Tâm lý cái tôi (Self Psychology).
Tâm lý học dòng Freudian dựa trên các lý thuyết do Sigmund Freud xây dựng lần đầu tiên vào đầu thế kỷ trước và đôi khi được cho là mô hình theo kiểu xung năng hoặc cấu trúc. Lý thuyết của Freud xoay quanh xung năng tính dục và gây hấn bắt nguồn từ id (trong vô thức) được điều chỉnh bởi bản ngã (là một tập hợp các chức năng để điều tiết giữa id và thực tế bên ngoài). Cơ chế phòng vệ là cấu trúc của bản ngã hoạt động để giảm thiểu đau đớn và duy trì trạng thái cân bằng cho tâm trí. Cái siêu tôi, được định hình trong giai đoạn ẩn tàng (từ 5 tuổi đến tuổi dậy thì) sẽ vận hành để kiểm soát các xung lực của id thông qua cảm giác tội lỗi (Messer và Warren, 1995).
Tâm lý học bản ngã bắt nguồn từ tâm lý học dòng Freudian. Những người ủng hộ nó tập trung làm việc tăng cường và duy trì chức năng cho bản ngã để phù hợp với nhu cầu của thực tế. Tâm lý học Bản ngã nhấn mạnh khả năng phòng vệ, thích nghi và thử nghiệm thực tế của cá nhân (Pine, 1990).
Tâm lý học Quan hệ đối tượng lần đầu tiên được trình bày rõ ràng bởi một số nhà phân tâm người Anh, trong số đó có Melanie Klein, W.R.D. Fairbairn, D.W. Winnicott và Harry Guntrip. Theo lý thuyết này, con người luôn được định hình trong mối quan hệ với những người quan trọng xung quanh họ. Những sự đấu tranh và mục tiêu của chúng ta trong cuộc sống tập trung vào việc duy trì mối quan hệ với những người khác, đồng thời phân biệt bản thân mình với những người khác. Cách sự hình dung bên trong về bản thân và người khác suốt trong thời thơ ấu sau này được thể hiện trong các mối quan hệ của người lớn. Các cá nhân lặp lại các mối quan hệ đối tượng cũ trong nỗ lực làm chủ chúng và thoát khỏi chúng (Messer và Warren, 1995).
Tâm lý học cái tôi được khởi xướng bởi Heinz Kohut, M.D., ở Chicago trong những năm 1950. Kohut quan sát thấy rằng cái tôi đề cập đến nhận thức của một người về trải nghiệm của họ với bản thân mình, bao gồm cả sự hiện diện hoặc thiếu ý thức về lòng tự trọng. Cái tôi được hiểu sẽ liên quan đến việc thiết lập các ranh giới và sự khác biệt của bản thân với những người khác (hoặc thiếu ranh giới và sự khác biệt). “Khả năng giải thích của tâm lý học cái tôi về bản thân không có gì rõ ràng bằng đối với chứng nghiện” (Blaine và Julius, 1977, trang vii). Kohut cho rằng những người mắc chứng rối loạn lạm dụng chất gây nghiện cũng mắc phải một điểm yếu trong cốt lõi nhân cách của họ - một khiếm khuyết trong quá trình hình thành "cái tôi". Các chất ở đây đối với người nghiện có như một khả năng chữa khỏi khiếm khuyết cốt lõi trong cái tôi. "Ma tuý được tiêm vào sẽ mang lại cho anh ta lòng tự trọng mà anh ta không có. Thông qua việc hợp nhất với ma tuý, anh ta tự mang lại cho mình cảm giác được chấp nhận và do đó tự tin; hoặc anh ta tạo ra trải nghiệm được hòa nhập với nguồn sức mạnh mang lại cho anh ta cảm giác mạnh mẽ và đáng giá". (Blaine và Julius, 1977, tr. vii-viii).
Mỗi trường phái trong số bốn trường phái lý thuyết tâm động học trình bày các lý thuyết riêng biệt về sự hình thành nhân cách, sự hình thành tâm bệnh và sự thay đổi; các kỹ thuật để tiến hành trị liệu; các chỉ định và chống chỉ định điều trị. Liệu pháp tâm động học khác với phân tâm học cổ điển ở một số điểm cụ thể, như trong thực tế là liệu pháp tâm động học không cần bao gồm tất cả các kỹ thuật phân tích và không được tiến hành bởi các nhà phân tâm được đào tạo về phân tâm học. Liệu pháp tâm động học cũng được tiến hành trong thời gian ngắn hơn và tần suất ít hơn so với phân tâm học.
Một số hình thức trị liệu tâm động học rút gọn được coi là ít phù hợp hơn để sử dụng với những người mắc chứng rối loạn lạm dụng chất gây nghiện, một phần vì nhận thức thay đổi của họ khiến họ khó đạt được hiểu biết sâu sắc và giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, nhiều nhà trị liệu tâm động học làm việc với những thân chủ lạm dụng chất gây nghiện sẽ kết hợp với các chương trình điều trị nghiện rượu và ma túy truyền thống cho những thân chủ mắc các chứng rối loạn đồng mắc.
Quá trình chữa lành và thay đổi được hình dung trong liệu pháp tâm động học dài hạn thường cần ít nhất 2 năm điều trị. Điều này là do mục tiêu của liệu pháp thường là để thay đổi một khía cạnh của bản sắc hoặc tính cách của một người hoặc để tích hợp một tiến trình phát triển quan trọng đã bị bỏ qua khi thân bị mắc kẹt ở một giai đoạn phát triển cảm xúc trước đó.
Khoảng thời gian trị liệu thường liên quan đến tham vọng của các mục tiêu trị liệu. Hầu hết các nhà trị liệu đều linh hoạt về số buổi trị liệu mà họ đề xuất cho việc thực hành lâm sàng. Thường thì số buổi sẽ phụ thuộc vào đặc điểm, mục tiêu của thân chủ và các vấn đề mà nhà trị liệu coi là trọng tâm. Số buổi thay đổi tùy theo cách tiếp cận này, nhưng liệu pháp tâm động học rút gọn thường được cho là không quá 25 buổi (Bauer và Kobos, 1987). Crits-Christoph và Barber tính đến các mô hình cho phép lên đến 40 buổi trong quá trình đánh giá lại các liệu pháp tâm động ngắn hạn do sự khác biệt về phạm vi điều trị và các loại mục tiêu được giải quyết (Crits-Christoph và Barber, 1991).
Lưu ý: trong video được tác giả dùng từ "psychotherapy" so với nội dung trình bày có thể hiểu ở đây là liệu pháp tâm động học nói chung. Nội dung vietsub dùng từ "liệu pháp phân tâm học" có thể hơi gây nhầm lẫn cho bạn đọc. Đây là video đã sub từ lâu của bọn mình nhưng chưa có dịp trau chuốt và chỉnh sửa lại, những lần sau sẽ cố gắng chú ý về từ ngữ dịch thuật kỹ hơn.
*Nguồn: https://youtu.be/g-i6QMvIAA0
**Bản quyền Vietsub thuộc về The Givers Project