Cuộc Sống End Y Khoa

Cuộc Sống End Y Khoa Page được lập ra nhằm mục đích cung cấp những kiến thức y khoa, tài liệu về

Chuyện xui rủi thôi thầy ơi
02/02/2022

Chuyện xui rủi thôi thầy ơi

Túi phình động mạch não CHƯA VỠ Tuần qua, một bệnh nhân (BN) trẻ xin được khám, vì tình cờ phát hiện có một túi phình nh...
04/01/2021

Túi phình động mạch não CHƯA VỠ

Tuần qua, một bệnh nhân (BN) trẻ xin được khám, vì tình cờ phát hiện có một túi phình nhỏ # 5mm tại ĐM cảnh trong. Vẻ mặt cậu khá lo lắng, có lẽ, vì đã được giải thích cần thiết can thiệp ngay, để loại bỏ túi phình cách đây vài ngày. Vậy chúng ta nên làm gì, nếu một ngày đẹp trời nào đó, đột nhiên biết mình đang có một túi phình nhỏ ở ĐM não ?

Xuất độ

Thật ra, túi phình ĐM não KHÁ THƯỜNG GẶP, ước tính khoảng 2-3% trong dân số, và có thể cao hơn trên dân số lớn tuổi. Như vậy, ở VN chúng ta, ước tính có khoảng 2-3 triệu “bom nổ chậm” trong dân số 100 triệu. Mặc dù vậy, tỷ lệ xuất huyết màng não hiện nay chỉ vào khoảng 6-10 ca/ 100.000 dân. Điều đó có nghĩa, hơn 3000 trường hợp có túi phình ĐM não, mới có một trường hợp gây vỡ !

Sẽ ra sao nếu chúng ta KHÔNG LÀM GÌ ?

Chắc hẳn sẽ có người hét vào mặt bác sỹ khi được nghe: “Ông/Bà không cần phải làm gì thêm, chỉ cần chờ đợi ngày …vỡ !!!”. Tuy nhiên điều này lại rất hợp lý.
Có nhiều yếu tố làm tăng nguy cơ vỡ túi phình như: tuổi, tăng huyết áp, hút thuốc lá, yếu tố gia đình đã có người bị vỡ túi phình…Tuy vậy, kích thước túi phình được xem là yếu tố quan trọng nhất, và có tính quyết định trong việc xử trí.
“The International Study of Unruptured Intracranial Aneurysms (ISUIA) study” được xem là nghiên cứu lớn nhất cho đến nay về túi phình ĐM não chưa vỡ. Nghiên cứu ISUIA bao gồm 1692 BN có túi phình với kích thước từ 2mm trở lên, trong số đó, 1077 BN mang túi phình chưa vỡ. Nhìn vào bảng tóm tắt phía dưới, chúng ta có thể thấy nguy cơ vỡ của túi phình có kích thước

‼️BỆNH NHI MỚI 14 THÁNG BỊ LÂY COVID-19 NHIỀU KHẢ NĂNG TỪ  SAU LẦN  ĐƯỢC BẾ LÊN ÔM HÔN..Nghe lại lời kể từ bố mẹ bệnh nh...
01/12/2020

‼️BỆNH NHI MỚI 14 THÁNG BỊ LÂY COVID-19 NHIỀU KHẢ NĂNG TỪ SAU LẦN ĐƯỢC BẾ LÊN ÔM HÔN..
Nghe lại lời kể từ bố mẹ bệnh nhi, các bác sĩ khoa Nhiễm Bệnh Viện chúng tôi thật bất ngờ trước những chuyện không ai muốn, sáng ngày 22/11 bố bé đưa bé đi thăm thầy cô cũ tại đường số 3, p. Bình Trị Đông B, Bình Tân, bé đã được thầy giáo tiếng Anh BN 1347 bế lên ôm hôn nựng má liên tục...Ai ngờ đâu, chỉ hơn 1 tuần sau, bé đã thành nạn nhân tiếp theo của đại dịch Covid-19!! Chúng tôi một lần nữa xin cảnh giác quý phụ huynh vì những động tác ôm hôn không cần thiết ở trẻ nhỏ qua bài viết nhắc lại dưới đây!!
⚠️ HÔN TRẺ NHỎ - BẠN CHỈ NGHĨ LÂY 🦠 HP, NHƯNG THỰC TẾ CÓ HƠN CHỤC LOẠI TÁC NHÂN NGUY HIỂM RÌNH RẬP MẠNG TRẺ, KỂ CẢ COVID-19
Từ BS Đỗ Tiến Sơn, Chăm con chuẩn Mỹ
Kính gửi các quý độc giả,
(Vì có thể bạn đang bị "mời" đọc những dòng này)

⭐️ Tuy làm bác sĩ, nhưng tôi không phải người "nhìn đâu cũng thấy vi khuẩn". Miếng bánh rơi chạm sàn không quá 2 giây, tôi vẫn thổi phù rồi ăn. Tôi tin vào hiệu quả của tiếp xúc với vi khuẩn, bụi bặm, cây cỏ làm con chúng ta khỏe mạnh. Để chúng được ốm, để chúng được vui vầy, lấm bẩn sẽ giúp cho hệ miễn dịch hoàn thiện.

⚠️ NHƯNG,
Có một ngoại lệ, đó là trẻ nhỏ. Chính xác là nhóm trẻ sơ sinh và trẻ bú mẹ. Ta thống nhất trong bài này, trẻ nhỏ = dưới 1 tuổi. Với trẻ nhỏ thì khác, đó là một cơ thể đang hoàn thiện và còn non nớt.

Tôi biết rằng...

😍 Nhìn cu con trên tay bạn, nhìn đứa cháu đỏ hỏn nhà hàng xóm, nhìn đứa cháu gọi bạn bằng dì mới sinh kìa. Ôi chao ôi là ...ngon. Má mềm, núng nính. Môi chúm chím căng mọng. Tóc mềm lưa thưa. Còn thơm mùi sữa.
Ôi chao ôi thật là cám dỗ!

Những điều ngọt ngào gây nghiện đó chính là thứ để các ông bố bà mẹ, ông bà nội ngoại quên đi những cơn khóc dạ đề, những lần thay bỉm, quấy đêm, những tuần wonder week "diệu kì". Mọi cám dỗ đều phải "trả giá".

😋 Chỉ vài phút chơi với con, cháu, là mọi lí thuyết trong đầu bạn sẽ tan biến. Ai cũng sẽ chuyển sang thứ giọng nựng trẻ con đặc trưng à ơi à ơi, chụp cái mông, cái má kia cả ngàn pose ảnh. Và ta quên ngay rằng: tất cả những gì ta đang có, là một khoang miệng mũi ĐẦY VI KHUẨN, VIRUS.

🙄 HỌA TỪ MIỆNG MÀ RA - BỆNH TỪ MIỆNG MÀ VÀO
Triết lí truyền đời của cha ông giờ lại đúng cả hai vế, mà lại là nghĩa đen luôn.

⚠️ HÃY NHỚ RẰNG:
- Trẻ nhỏ chưa được tiêm vaccine đủ cho đến khi đủ 1 tuổi.
- Hệ miễn dịch của chúng chưa hoàn thiện.

ĐÁM TRẺ TIN HIN THỰC SỰ ĐỐI MẶT VỚI CÁI CHẾT VÀ BỆNH TẬT NẾU KHÔNG ĐƯỢC PHÒNG BỆNH TRIỆT ĐỂ!

🙄 Tôi biết bạn đang nghĩ là ông bác sĩ này lại nghĩ quá lên, lại đi gieo rắc nỗi sợ vốn đã thừa ở thế giới này, âm mưu chia cắt tình mẹ con, cha con, bà cháu, dì cháu!

KHÔNG, ĐÓ LÀ LUẬT - CÁI LUẬT CƠ BẢN CỦA MỘT NGƯỜI VỆ SINH SẠCH SẼ! Chỉ là vì những cám dỗ thơm tho của đứa bé, mà bạn quên đi, mà thôi.

☣️ Sau đây là danh sách CÁC VIRUS, VI KHUẨN THỰC SỰ LÂY QUA MỘT CÁI HÔN:

🦠 Treponema pallidum: gây bệnh GIANG MAI
🦠 Neisseria meningitidis: gây VIÊM NÃO MÀNG NÃO
🦠 Herpes simplex virus type 1 (HSV-1): gây LOÉT MIỆNG, VIÊM LỢI, VIÊM NÃO DO HSV
🦠 Cytomegalovirus (CMV): nhiễm mạn tính, cả đời có nguy cơ bệnh GAN, NÃO
🦠 Coxsackie A16: gây bệnh TAY CHÂN MIỆNG
🦠 Group A streptococcus: gây các bệnh lý HÔ HẤP
🦠 Virus RSV (hợp bào hô hấp): gây VIÊM PHỔI ở trẻ sơ sinh, viêm tiểu phế quản
🦠 Ho gà: gây bệnh HO GÀ, VIÊM PHỔI DO HO GÀ, ĐẶC BIỆT NẶNG ở trẻ sơ sinh chưa tiêm phòng
🦠 Helicobacter pylori: yếu tố gây VIÊM LOÉT DẠ DÀY
🦠 GẦN NHƯ TẤT CẢ các loại virus, vi khuẩn gây bệnh đường hô hấp
🦠 GẦN NHƯ TẤT CẢ các loại virus, vi khuẩn gây bệnh tiêu hóa (vì hôn thì phải bế, mà tay thì chưa rửa).

Ngoài ra, trong 1 nụ hôn, còn khuyến mại thêm các thứ sau:
💄 Nguy cơ dị ứng (son môi, cặn thức ăn, bụi)
💄 Phơi nhiễm hóa chất (son môi, mĩ phẩm)
🦠 Sâu răng (truyền Streptococcus mutans trong nước bọt)
🦠 Nguy cơ suy yếu hệ miễn dịch
🚬 Khói thuốc (thuốc lá, lào, cần cỏ, v**e)

🙄 VỚI TẤT CẢ NHỮNG NGUY CƠ – CÓ – THẬT KIA,
BẠN ĐÃ CÓ QUYẾT ĐỊNH CỦA MÌNH CHƯA?

💟 VÌ NHỮNG BÉ CON ĐÁNG YÊU KHỎE MẠNH, HÃY HỨA VỚI TÔI

1. Thẳng thắn bảo vệ con trước những cái hôn – trước sinh nhật 1 tuổi.
2. Không hôn, thơm má trẻ nhỏ nhà khác.
3. Tuân thủ các phương pháp vệ sinh khi thăm trẻ con.

📯 CÁC HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ LÀ:

✅ Rửa tay, tắm, đánh răng xúc miệng, rửa mũi họng thường xuyên.
✅ Vệ sinh răng miệng tốt cho trẻ.
✅ Luôn rửa tay bằng xà phòng hoặc sát khuẩn nhanh trước khi bế con.
✅ Tắm bé đều đặn với phương pháp phù hợp.
✅ Tuyên truyền, cảnh cáo người thân, bạn bè.
✅ Xếp riêng đồ vệ sinh mặt mũi miệng của con, không chung đồ người lớn.
✅ Không cho tiếp xúc với người đang có biểu hiện ho, hắt hơi, chảy mũi, tiêu chảy và các bệnh lý cấp tính. Và đã ốm thì không chơi với trẻ con, tự giác đi!
✅ Không hút thuốc lá. Nếu hút thuốc, phải hút ngoài nhà, sau khi hút phải thay quần áo, tắm, xúc miệng, đánh răng rồi mới bế con.
✅ Với các cô, dì, thím: hãy tẩy trang trước khi bế cháu.
✅ Nếu mẹ ốm, con theo mẹ: đeo khẩu trang, rửa tay, xúc miệng, rửa mũi liên tục.
✅ Tiêm chủng đầy đủ đúng lịch để xây dựng hệ miễn dịch sớm.

😍 Lần tới, khi đến thăm một nhà có bé con, hãy nhớ những điều đã hứa. Sau khi rửa tay sạch, xúc miệng, bạn hoàn toàn có thể bế hộ bé một lát, chơi cùng nó một tí, để mẹ nó ăn, tắm, nghỉ ngơi một xíu. Chỉ cần kiềm chế, đừng hôn hít, đừng đụng chạm khi tay bẩn lên các con, mà thôi!

💟 Ôi những điều cám dỗ dễ thương thơm mùi sữa ấy! Lớn rồi, phải hiểu để kiềm chế nha.
Dr. Nick Nguyễn Cát & CCH Social Media Team
Nguồn: Bệnh viện nhi đồng thành phố

ĐIỀU TRỊ VIÊM CÂN GAN CHÂNTIÊM CÂN GAN CHÂN BẰNG GLUCOCORTICOID VÀ PHONG BẾ THẦN KINH CHẦY SAU DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂMCÁC...
27/09/2020

ĐIỀU TRỊ VIÊM CÂN GAN CHÂN
TIÊM CÂN GAN CHÂN BẰNG GLUCOCORTICOID VÀ PHONG BẾ THẦN KINH CHẦY SAU DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM

CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH THỦ THUẬT
- Siêu âm xác định cân gan tại vị trí bám vào gót chân và dây thần kinh chày sau ở vị trí trên mắt cá trong.
- Sát khuẩn cẳng chân và bàn chân bên tổn thương.
- Trải săng vô khuẩn, săng có lỗ.
- Phong bế thần kinh chày sau dưới hướng dẫn siêu âm.
- Kiểm tra cảm giác đau ở vị trí mặt trong gót chân nơi tiêm cân gan chân.
- Khi bệnh nhân giảm đau thỏa đáng, tiến hành tiêm cân gan chân dưới hướng dẫn siêu âm, đưa glucocorticoids vào vị trí giữa cân gan chân và đệm mỡ gót chân.
- Rút kim, băng vô khuẩn, hướng dẫn chăm sóc sau thủ thuật và tái khám.

Bộ môn Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình

Ảnh đúng là chụp ở sân trường ĐHYHN rồi các bạn ạ!❤️🧡💛💚💙💜
03/09/2020

Ảnh đúng là chụp ở sân trường ĐHYHN rồi các bạn ạ!❤️🧡💛💚💙💜

DỰ BÁO ĐIỂM CHUẨN!!!
28/08/2020

DỰ BÁO ĐIỂM CHUẨN!!!

ĐIỂM ĐẠI HỌC Y ĐA KHOA 2020 BAO NHIÊU THÌ ĐỖ?.
Theo nhận định chung đề thi năm nay khá dễ, phổ điểm thi ĐH khối B khá cao: 850 bạn >=28 điểm, có > 2000 bạn >= 27điểm; có >4300 bạn >=26 điểm; có >7800 bạn >= 25điểm (chưa kể điểm ưu tiên từ 0.25-1.0 điểm).
Vậy cơ hội vào các trường Y đa khoa như thế nào?.
1. ĐH Y Hà Nội (Top 1)
- Chỉ tiêu có dưới 400 Bác sĩ đa khoa (vì có 90 bạn đã đc xét tuyển thẳng.
- Phổ điểm khối B có 850 bạn >= 28 điểm, điều này có nghĩa điểm chuẩn Y đa khoa của Y Hà Nội rất có thể từ 27.75 - 28.25 điểm.

2. Khoa Y của ĐH Quốc gia
- Chỉ tiêu có dưới 200 Bác sĩ đa khoa.
- Phổ điểm khối B có > 2000 bạn >= 27 điểm, điều này có nghĩa điểm chuẩn Y đa khoa của trường rất có thể từ 27.0 - 27.5 điểm.

3. Đại học Y Hà Nội phân hiệu Thanh Hóa (Top 3)
- Chỉ tiêu có 100 Bác sĩ đa khoa.
- Dù ở Thanh Hóa nhưng cơ bản vẫn là của Y Hà Nội Đào tạo nên điểm chuẩn có thể 26.75 - 27.5 điểm.

4. Các trường Y ngang hàng (top 3): Y dược Huế, Thái bình, Thái Nguyên, Hải phòng, Cần thơ.
- Chỉ tiêu có dưới 500 Bác sĩ đa khoa (tổng 2500 học sinh có cơ hội vào).
- Phổ điểm khối B có > 4000 bạn >= 26 điểm, điều này có nghĩa điểm chuẩn Y đa khoa của các trường Y này rất có thể từ 26.25 - 27.25 điểm (trong đó Y Huế có thể 27.25, Y Thái Bình 26.75 điểm).

5. Các trường Y top 4: Y Vinh, Đà nẵng, Trần Quốc toản... dao động từ 25 - 26.0 điểm.

6. Trường hợp đặc biệt:
a) ĐH Y Dược TP HCM là thuộc top cao (top 2) các năm, tuy nhiên năm nay tự chủ học phí phi mã 68 triệu/ năm nên rất có thể các thí sinh top 4 sẽ lựa chọn đông vì thế điểm đầu vào có thể dưới 26 điểm.
b) ĐH Y Phạm Ngọc thạch nằm top 3 so với các năm nhưng năm nay tự chủ học phí cũng tăng nên điểm chuẩn có thể dưới 26 điểm.....
7. Các ngành Y khác: Răng hàm mặt, Y học cổ truyền, Y học dự phòng thì độ hót không bằng y đa khoa nên điểm sẽ thấp hơn từ 1 đến 4 điểm nhé ^^..
Trên đây là ý kiến cá nhân cho các bạn Học sinh đang muốn vào Y để tham khảo chọn lựa.....
Chúc các bạn thành công!..
TS. Lê Tuân

TÁC HẠI CỦA MỠ THỪA VÙNG BỤNG[Tag bạn bè vào để có động lực giảm cân nào]
10/08/2020

TÁC HẠI CỦA MỠ THỪA VÙNG BỤNG
[Tag bạn bè vào để có động lực giảm cân nào]

06/08/2020

Hãy nhớ: Người đi từ vùng dịch về dù có xét nghiệm test nhanh tìm kháng thể âm tính vẫn có thể là người đang nhiễm bệnh, vẫn có thể lây nhiễm bệnh cho cộng đồng nên cần tiếp tục tuân thủ thực hiện cách ly theo khuyến cáo của Bộ y tế.

❤❤❤XÉT NGHIỆM TEST NHANH COVID19, CẦN HIỂU ĐÚNG VỀ KẾT QUẢ XÉT NGHIỆM ĐỂ TRÁNH GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG❤❤❤

☘Trước tình hình dịch COVID-19 đang diễn biến rất phức tạp ở Đà Nẵng, Bộ y tế đã yêu cầu khai báo y tế và thực hiện cách ly với tất cả những người đã đi từ Đà Nẵng trở về các địa phương, Thành Phố Hà Nội đã và đang tiến hành làm xét nghiệm test nhanh cho những người từ Đà Nẵng trở về từ đầu tháng 7, tuy nhiên rất nhiều người đã hiểu chưa đúng về giá trị của xét nghiệm này, vì vậy người dân cần hiểu rõ hơn về giá trị của xét nghiệm này tránh gây hậu quả nghiêm trọng. Xin được giải thích chi tiết hơn như sau:
☘Để phát hiện một người có bị nhiễm vi rút SARS-COV2 hay không hiện nay có 2 nhóm các xét nghiệm: Các xét nghiệm trực tiếp và các xét nghiệm gián tiếp.
☘Các xét nghiệm trực tiếp: Là các xét nghiệm nhằm tìm kiếm sự hiện diện của các thành phần của cấu tạo của vi rút ở trong cơ thể (Hiện nay xét nghiệm phổ biến nhất là xét nghiệm tìm kiếm các đoạn gen của vi rút bằng kỹ thuật PCR, ngoài ra còn có xét nghiệm nuôi cấy phân lập vi rút).
- Ưu điểm của xét nghiệm này có thể phát hiện người nhiễm vi rút ở những giai đoạn rất sớm kể từ khi người bệnh chưa biểu hiện bệnh, vì vậy đây là xét nghiệm rất có giá trị được tổ chức y tế thế giới khuyến cáo là xét nghiệm dung để chẩn đoán một người có đang bị nhiễm bệnh hay không.
-Nhược điểm của xét nghiệm này là đòi hỏi phải có phòng xét nghiệm được trang bị đủ phương tiện cần thiết, nhân viên được đào tạo chuyên sâu, và xét nghiệm này thường tốn kém và mất nhiều thời gian. Vì vậy để thực hiện xét nghiệm này cho tất cả đối tượng nghi nhiễm là điều không hề dễ dàng và cần có thời gian. Trên thế giới có nhiều hãng đang tìm cách nghiên cứu các xét nghiệm Test nhanh tìm kiếm các cấu trúc của vi rút SARS-COV2 giúp chẩn đoán nhanh, nhưng cho đến nay vẫn chưa có bất kỳ xét nghiệm test nhanh nào được công nhận và áp dụng trong chẩn đoán COVID-19 .
☘Các xét nghiệm gián tiếp: là các xét nghiệm nhằm tìm kiếm các dấu vết của vi rút để lại trong cơ thể nhiễm. Cụ thể trong trường hợp bệnh COVID-19 là làm các xét nghiệm tìm kháng thể mà cơ thể sinh ra khi bị nhiễm vi rút SARS-COV2 (Đây là xét nghiệm mà thành phố Hà Nội đang thực hiện hiện nay). Có điều hết sức lưu ý là người nhiễm vi rút SARS-COV2 không phải ai cũng sinh ra kháng thể, và kháng thể cũng không phải được tạo ra ngay sau khi người bị nhiễm vi rút SARS-COV2 (VD một bài tổng hợp rất nhiều các nghiên cứu về COVID-19 cho thấy chỉ có 23% người nhiễm SARS-COV2 có kháng thể IgM sau 1 tuần bị nhiễm, 58% người nhiễm 2 tuần mới có kháng thể; và 75% người bị nhiễm sau 3 tuần mới có kháng thể). Xét nghiệm test nhanh tìm kháng thể dương tính chỉ thể hiện rằng người đó đã từng bị nhiễm vi rút SARS-COV2 trong quá khứ, chứ không thể khẳng định người đó có đang bị bệnh, có khả năng lây bệnh hay không. Ngược lại, xét nghiệm test nhanh tìm kháng thể âm tính không có nghĩa là người đó không bị nhiễm, và không lây cho người khác (Người bị nhiễm vi rút này ở giai đoạn đầu chưa có kháng thể xét nghiệm này chắc chắn âm tính, nhưng người này vẫn có thể lây cho người khác).
☘ Việc làm xét nghiệm test nhanh tìm kháng thể trong quần thể dân số nguy cơ có giá trị xác định tỷ lệ người từng nhiễm vi rút này, giúp đánh giá quy mô dịch bệnh trong cộng đồng, giúp các nhà hoạch định chính sách có các biện pháp tổ chức chống dịch phù hợp.
☘Như vậy “ Người đi từ vùng dịch về dù có xét nghiệm test nhanh tìm kháng thể âm tính vẫn có thể là người đang nhiễm bệnh, vẫn có thể lây nhiễm bệnh cho cộng đồng nên cần tiếp tục tuân thủ thực hiện cách ly theo khuyến cáo của Bộ y tế”.
BS Đồng Phú Khiêm
Phó Trưởng Khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện bệnh Nhiệt đới Trung ương.

Mùa hè rồi, các bạn lưu ý uống nước đúng cách để có sức khoẻ thật tốt nhé!
05/08/2020

Mùa hè rồi, các bạn lưu ý uống nước đúng cách để có sức khoẻ thật tốt nhé!

Mùa hè rồi, các bạn lưu ý uống nước đúng cách để có sức khoẻ thật tốt nhé!

TRỌN BỘ CẨM NANG UỐNG NƯỚC CHUẨN KHÔNG CẦN CHỈNH


Ai cũng cần biết để có một cuộc sống khỏe mạnh hơn
5 THỜI ĐIỂM CẦN UỐNG NƯỚC NHẤT TRONG NGÀY
1. 8 giờ sáng
2. 11 giờ trưa
3. 1 giờ chiều
4. 4 giờ chiều
5. 8 giờ tối

5 SAI LẦM CHẾT NGƯỜI KHI UỐNG NƯỚC VÀO MÙA HÈ
1. Uống nước lạnh khi vừa đi nắng về
2. Uống nhiều nước trong thời gian ngắn vào mùa nóng
3. Chỉ uống nước khi khát
4. Uống cố định 2 lít nước/ ngày
5. Uống nước khi đứng

UỐNG NƯỚC CHUẨN THEO CÂN NẶNG
40 – 43 kg : 960ml
45 – 49 kg: 1080ml
50 – 54 kg: 1200ml
55 – 59 kg: 1320ml
60 – 64 kg: 1440ml
65 – 69 kg: 1560ml
70 – 74 kg: 1680ml
75 – 79 kg: 1920ml
80 – 84 kg: 2040ml
85 – 89 kg: 2160ml

5 LƯU Ý QUAN TRỌNG KHI UỐNG NƯỚC
1. Không uống nước để qua đêm
2. Uống vào buổi sáng khi mới thức dậy
3. Uống trước và sau khi tập thể thao
4. Uống khi thấy mệt mỏi
5. Không nên uống quá nhiều một lúc

UỐNG NƯỚC THẾ NÀO LÀ ĐÚNG CÁCH
1. Uống nước trong khi ngồi
2. Nước ấm là lựa chọn tốt nhất
3. Đừng uống nhiều trong khi ăn
4. Uống ngay cả khi bạn không khát
5. Chia nhỏ lượng nước uống

NƯỚC TIỂU TIẾT LỘ VỀ CÁCH UỐNG NƯỚC
1. Nước tiểu không màu: Cơ thể thừa nước
2. Nước tiểu màu vàng sậm: Không uống đủ nước
3. Nước tiểu màu vàng nhạt: Uống nước đúng

Nguồn: Sưu tầm Internet

TỔNG QUAN VỀ VIÊM GAN B (HBV) VÀ THAI KỲVÀ VÌ SAO PHẢI XÉT NGHIỆM VIÊN GAN B KHI MANG THAI?TÓM TẮT VÀ KHUYẾN CÁO1. Nhiễm...
04/08/2020

TỔNG QUAN VỀ VIÊM GAN B (HBV) VÀ THAI KỲ
VÀ VÌ SAO PHẢI XÉT NGHIỆM VIÊN GAN B KHI MANG THAI?

TÓM TẮT VÀ KHUYẾN CÁO

1. Nhiễm HBV cấp tính trong khi mang thai thường là không nghiêm trọng và không liên quan với tăng tỷ lệ tử vong hoặc sinh quái thai.

2. Mang thai nói chung được dung nạp tốt ở những phụ nữ nhiễm viêm gan B mạn tính không có bệnh gan tiến triển. Tuy nhiên, do bệnh nhân thỉnh thoảng có bùng phát viêm gan, người mẹ HBsAg dương tính cần được theo dõi chặt chẽ. Nên xét nghiệm sinh hóa gan ba tháng/lần trong khi mang thai và sáu tháng/lần sau khi sinh. HBV DNA nên được kiểm tra đồng thời hoặc khi có ALT tăng.

3. Các yếu tố khác nhau cần phải xem xét khi quyết định điều trị kháng virus trong quá trình mang thai bao gồm chỉ định, dự kiến ​​thời gian điều trị, nguy cơ ảnh hưởng bất lợi cho thai nhi, hiệu quả và nguy cơ xuất hiện kháng thuốc. Sức khỏe của người mẹ và thai nhi phải được xem xét một cách độc lập khi quyết định điều trị. Sự an toàn của phơi nhiễm với thuốc ở thai nhi cần phải được cân nhắc với nguy cơ ngừng hoặc thay đổi điều trị cho người mẹ.

4. Tỷ lệ nhiễm ở trẻ có mẹ HBeAg dương tính không được dự phòng dưới bất kỳ hình thức nào lên đến 90%. Hiệu quả bảo vệ cao (95%) của tiêm chủng trẻ sơ sinh gợi ý rằng hầu hết nhiễm xảy ra khi sinh, khi dịch tiết ống đẻ của mẹ tiếp xúc với niêm mạc của trẻ. Các yếu tố nguy cơ lây truyền quan trọng nhất mặc dù đã dự phòng là sự nhân lên liên tục của virus và tải lượng HBV mẹ cao.

5. Cần làm xét nghiệm HBsAg cho tất cả phụ nữ đến khám thai lần đầu và làm lại lúc cuối thai kỳ cho những người có nguy cơ cao bị nhiễm HBV. Trẻ sơ sinh có mẹ mang HBV sẽ được tiêm chủng gây miễn dịch thụ động-chủ động. Bên cạnh tiêm chủng gây miễn dịch thụ động-chủ động theo tiêu chuẩn, cần cho những người mẹ có nồng độ HBV DNA cao được điều trị kháng virus vì nó có thể làm giảm hơn nữa nguy cơ lây truyền chu sinh. (Sơ đồ 1).
Chi tiết các vấn đề liên quan.
Nguy cơ xuất hiện nhiễm HBV mạn tính là tỉ lệ nghịch với tuổi tại thời điểm tiếp xúc. Nguy cơ cao tới 90% ở những người tiếp xúc khi sinh, trong khi nguy cơ thấp hơn nhiều (khoảng 20 đến 30%) ở những người tiếp xúc trong thời thơ ấu. Việc xác định các bà mẹ có nguy cơ cao cho phép dự phòng lây truyền, có thể làm giảm tỷ lệ lây truyền từ 90% xuống còn 5 đến 10%.

1. Ảnh hưởng của viêm gan B cấp tính trên kết cục thai kỳ

Viêm gan virus cấp tính là nguyên nhân phổ biến nhất của vàng da trong thai kỳ [1]. Các nguyên nhân khác bao gồm các bệnh gan cấp tính liên quan đến thai kỳ như gan nhiễm mỡ cấp tính của thai kỳ, HELLP và ứ mật trong gan của thai kỳ.

Nhiễm HBV cấp trong thai kỳ thường là không nghiêm trọng và không liên quan đến tăng tỷ lệ tử vong hoặc tăng khả năng sinh quái thai [1,2]. Do đó, nhiễm trong thai kỳ không cần phải cân nhắc đình chỉ thai nghén. Tuy nhiên, đã có những báo cáo tăng tỉ lệ thấp cân khi sinh và đẻ non ở trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HBV cấp[2,3]. Hơn nữa, nhiễm HBV cấp tính xảy ra sớm trong thai kỳ có liên quan đến tỷ lệ lây truyền chu sinh 10% [3]. Tỷ lệ lây truyền tăng đáng kể nếu nhiễm trùng cấp tính xảy ra vào lúc hoặc gần lúc sinh, với tỷ lệ được báo cáo lên tới 60% [1].

Điều trị nhiễm cấp tính trong thai kỳ chủ yếu là hỗ trợ. Cần theo dõi xét nghiệm sinh hóa gan và thời gian prothrombin. Điều trị kháng virus thường là không cần thiết, ngoại trừ ở những phụ nữ có suy gan cấp tính hoặc viêm gan nặng dai dẳng [4]. Trong tình huống này, lamivudine (100 mg mỗi ngày) là một lựa chọn hợp lý vì thuốc này đã được sử dụng một cách an toàn trong thai kỳ và dự kiến ​​thời gian điều trị ngắn [5]. Telbivudine và tenofovir (cả hai được FDA xếpphân loại B trong thai kỳ) là những lựa chọn thay thế chấp nhận được.

2. Ảnh hưởng của viêm gan B mạn tính trên kết cục thai kỳ

Phụ nữ nhiễm viêm gan B mạn tính không có bệnh gan tiến triển thường dung nạp tốt việc mang thai. Tuy nhiên, do bệnh nhân đôi khi xuất hiện đợt bùng phát viêm gan, cần theo dõi sát những người mẹ có HBsAg dương tính. Nên xét nghiệm sinh hóa gan 3 tháng/lần khi mang thai và 6 tháng/lần sau khi sinh. Có thể xét nghiệm HBV DNA đồng thời hoặc khi có ALT tăng.

Không có mối liên hệ chắc chắn nào giữa HBV mạn tính và sự xuất hiện các bệnh khác trong thai kỳ. Mối liên quan có thể có là giữa HBV mạn tính và đái tháo đường thai nghén [6,7]. Tuy nhiên, dữ liệu bị trộn lẫn và mâu thuẫn [8,9],và cường độ của mối liên quan này là không rõ ràng.

Mang thai được coi là một tình trạng dung nạp miễn dịch và có liên quan với nồng độ cao của corticosteroid tuyến thượng thận với sự điều hòa hoạt động cáccytokine tham gia đáp ứng miễn dịch. Điều này có khả năng làm tăng HBV trong máu, mặc dù hầu hết các nghiên cứu thấy nồng độ HBV DNA vẫn ổn định trong khi mang thai [10,11]. Mức ALT có xu hướng tăng vào cuối thai kỳ và trong giai đoạn sau đẻ ở phụ nữ bị nhiễm HBV mạn tính.

Những thay đổi về miễn dịch học trong thời gian mang thai và sau khi sinh có liên quan đến các đợt bùng phát viêm gan (bao gồm cả mất bù gan), mặc dù các đợt bùng phát (nhất là khi có di chứng lâm sàng nghiêm trọng) dường như ít gặp [12]. Trong giai đoạn sau đẻ, các đợt bùng phát có thể liên quan đến phục hồi miễn dịch (một tình trạng tương tự với đợt bùng phát về mặt miễn dịch học). Những đợt bùng phát này đã được mô tả sau khi ngừng corticoid ở những bệnh nhân HBV mạn tính không mang thai [13-15]. Chưa xác định được yếu tố tiên đoán đợt bùng phát HBV trong thai kỳ.

Những đợt bùng phát liên quan đến chuyển đảo huyết thanh HBeAg chiếm khoảng 12 đến 17% bệnh nhân [13], một tỷ lệ tương tự như ở những bệnh nhân không mang thai. Vẫn còn chưa rõ yếu tố tiên đoán chuyển đảo huyết thanh HBeAg ở những bệnh nhân có đợt bùng phát. Bằng chứng còn hạn chế cho thấy chuyển đảo huyết thanh là không liên quan đến tuổi của người mẹ, số lần sinh, hoặc sự hiện diện của đột biến tiền lõi (precore) hoặc đột biến gen khởi động lõi phía nền [13,16].
3. Ảnh hưởng của thai nghén trên bệnh gan

Những thay đổi miễn dịch, chuyển hóa và huyết động xảy ra trong khi mang thai có khả năng làm xấu đi hoặc làm lộ rõ bệnh gan nền. Việc đánh giá mức độ nghiêm trọng của bệnh gan có thể khó khăn trong quá trình mang thai do những thay đổi sinh lý bình thường có thể lẫn với các biểu hiện lâm sàng của bệnh gan mạn tính. Đặc biệt, albumin huyết thanh và hematocrit thường giảm, trong khi phosphatase kiềm và alpha fetoprotein tăng. Tương tự như vậy, khám thực thể có thể thấy những biểu hiện gợi ý đặc tưng bệnh gan mạn tính như bàn tay son, phù chi dưới và sao mạch.

Ít gặp mang thai ở bệnh nhân xơ gan tiến triển do những bệnh nhân này thường giảm khả năng sinh sản giảm do chu kỳ kinh nguyệt không rụng trứng. Mang thai có nhiều khả năng xảy ra hơn trong giai đoạn đầu xơ gan. Điều quan trọng là phải xác định và theo dõi những bệnh nhân này vì họ có nguy cơ đáng kể bị các biến chứng chu sinh và kết cục xấu cho mẹ và thai nhi bao gồm hạn chế tăng trưởng trong tử cung, nhiễm trùng trong tử cung, sinh non và thai chết trong tử cung. Tăng nguy cơ đã được chứng minh trong một nghiên cứu quần thể ở Canada, trong đó kết cục của mẹ và thai nhi trên 399 bệnh nhân xơ gan được so sánh với nhóm chứng ghép cặp sinh con từ năm 1993 đến năm 2005 [17]. Biến chứng của mẹ bao gồm tăng huyết áp thai nghén, rau b**g non và xuất huyết quanh cuộc đẻ tăng ở nhóm xơ gan. Ngoài ra, 15% các bà mẹ xơ gan xuất hiện mất bù gan. Tỷ lệ tử vong chung cao hơn nhiều so với nhóm chứng (1,8% so với 0%). Những trẻ sinh ra từ bà mẹ xơ gan có tỷ lệ đẻ non và hạn chế tăng trưởng cao hơn, đồng thời tỷ lệ tử vong của thai nhi cũng cao hơn đáng kể (5,2% so với 2,1%). Các báo cáo khác đã nêu nguy cơ chảy máu do phình tĩnh mạch tăng cao, nhất là trong ba tháng cuối và khi chuyển dạ do tăng áp lực trong ổ bụng và tăng thể tích huyết tương.

Xử trí người phụ nữ xơ gan mang thai không khác so với bệnh nhân không mang thai. Sàng lọc phình tĩnh mạch bằng nội soi vẫn được khuyến cáo và an toàn trong thai kỳ. Chảy máu phình tĩnh mạch cần được xử trí tương tự bằng cách thắt hoặc gây xơ hóa. Tuy nhiên, cần thận trọng khi điều trị bằng thuốc chẹn beta để dự phòng hoặc xử trí sau chảy máu phình tĩnh mạch do làm tăng nguy cơ hạn chế tăng trưởng trong tử cung, chậm nhịp tim thai/trẻ sơ sinh, hạ đường huyết trẻ sơ sinh, và/hoặc suy hô hấp trẻ sơ sinh. Không nên cho Octreotide khi xử trí chảy máu phình tĩnh mạch cấp tính do nguy cơ thiếu máu cục bộ tử cung.

6. Ảnh hưởng nhiễm HBV trên trẻ nhũ nhi

6.1. HBV ở trẻ sơ sinh

- Tác động của HBV trên trẻ sơ sinh vẫn chưa được xác định rõ.

- Một nghiên cứu lớn so sánh 824 phụ nữ HBsAg dương tính với 6281 người chứng HBsAg âm tính [31]. Không thấy khác biệt về tuổi thai lúc sinh, trong trọng lượng lúc sinh, tỷ lệ đẻ non, vàng da sơ sinh, dị tật bẩm sinh và tỷ lệ tử vong chu sinh.

- Trái lại, đã có mô tả những mối liên quan có thể có giữa HBV mạn tính và đái tháo đường thai nghén [6,7,32], tăng nguy cơ đẻ non [33], trọng lượng lúc sinh thấp hơn [34] và xuất huyết trước sinh [32]. Tuy nhiên, dữ liệu bị trộn lẫn và mâu thuẫn [8,9], và cường độ của mối liên quan này là không rõ ràng.

6.2. Lây truyền chu sinh

- Tỷ lệ nhiễm ở trẻ nhũ nhi có mẹ HBeAg dương tính không nhận được bất kỳ hình thức dự phòng nào lên tới 90% [35]. Lây truyền mẹ-con có thể xảy ra trong tử cung, khi sinh, hoặc sau khi sinh. Hiệu quả bảo vệ cao (95%) của việc tiêm chủng cho trẻ sơ sinh gợi ý rằng hầu hết nhiễm xảy ra khi sinh, khi dịch tiết trong ống đẻ của mẹ tiếp xúc với niêm mạc của trẻ. Ủng hộ cho giả thuyết này là một nghiên cứu thực hiện tại Trung Quốc, cho thấy chỉ có 3,7% trẻ xét nghiệm HBsAg dương tính lúc sinh là nhiễm từ trong tử cung [36].

- Thực hiện phổ cập sàng lọc HBV cho bà mẹ và phổ cập tiêm vắc xin cho trẻ sơ sinh bất kể tình trạng HBV của mẹ đã làm giảm đáng kể tỷ lệ lây truyền. Cho dự phòng bằng HBIG lúc mới sinh, sau đó là tiêm thường quy loạt ba liều vắc xin HBV tái tổ hợp thường xuyên trong sáu tháng đầu đời đã làm giảm tỷ lệ lây truyền xuống còn khoảng 5 đến 10 phần trăm.

6.3. Các yếu tố nguy cơ lây truyền chu sinh

- Mặc dù được dự phòng đúng đắn (HBIG và liều vắc xin HBV đầu tiên dùng trong vòng 12 giờ sau sinh và hoàn tất cả loạt vắc xin HBV), các yếu tố nguy cơ lây truyền quan trọng nhất có lẽ là sự nhân lên liên tục của virus và tải lượng virus HBV của mẹ cao.

- Lây truyền qua rau thai và lây truyền do các thủ thuật sản khoa là những nguyên nhân ít gặp hơn, còn bú mẹ dường như không phải là nguy cơ đáng kể.

- Chưa hoàn toàn rõ về lợi ích của mổ đẻ trong việc bảo vệ phòng tránh lây truyền. Không nên để tình trạng HBV của người mẹ ảnh hưởng đến quyết định sản khoa.

6.3.1. Tình trạng nhân lên của HBV

- Nguy cơ lây truyền tăng lên ở người phụ nữ có sự nhân lên liên tục của HBV.

- Trong một nghiên cứu loạt trường hợp, lây truyền gặp ở 85 đến 90% trẻ có mẹ HBeAg dương tính và 32% trẻ có mẹ HBeAg âm tính không được dự phòng [37].

- Những trẻ có mẹ HBeAg dương tính vẫn có nguy cơ nhiễm HBV cho dù được tiêm vắc xin và HBIG (khoảng 9% trong một nghiên cứu thuần tập lớn) [38].

6.3.2. Nồng độ HBV DNA

- Nồng độ HBV DNA huyết thanh mẹ tương quan với nguy cơ lây truyền. Lây truyền dọc viêm gan B xảy ra ở 9 đến 39% trẻ có mẹ tải lượng virus cao (≥ 8 log10 bản sao/mL và có thể > 6 log10 bản sao/mL) cho dù có tiêm vắc xin sau sinh [39-42].

- Trong một nghiên cứu 773 bà mẹ HBsAg dương tính ở Đài Loan, tỷ suất chênh để có một trẻ bị nhiễm bệnh tăng từ 1 đến 147 khi nồng độ HBV DNA huyết thanh mẹ tăng từ 5 pg/mL (khoảng 150.000 U/mL) đến > 1400 pg/mL (khoảng 45 triệu U/mL) [43].

- Trong một nghiên cứu khác tiến hành tại Trung Quốc trên 112 trẻ sơ sinh có mẹ bị nhiễm HBV mạn tính, tỷ lệ nhiễm tăng từ 0% ở bà mẹ có HBV DNA < 5 log10 bản sao/mL (< 20.000 U/mL) đến 50% ở những bà mẹ có HBV DNA từ 9 đến 10 log10 bản sao/mL (khoảng 9 log10 U/mL) [44].

- Một nghiên cứu tiến hành ở Australia trên 138 trẻ có mẹ HBV DNA dương tính đã cho thấy xu hướng tương tự [45]. Lây truyền HBV đã được phát hiện ở 4 em bé mặc dù 3 trẻ đã dùng HBIG và tiêm vắc xin HBV còn 1 bé chỉ tiêm vắc xin. Tất cả 4 em bé đều sinh ra từ mẹ có nồng độ HBV DNA cao (> 108 bản sao/mL).

- Một nghiên cứu nữa gợi ý rằng thất bại dự phòng miễn dịch nhiều khả năng xảy ra khi bà mẹ HBeAg dương tính có nồng độ HBV DNA > 6 log10 bản sao/mL [42].

6.3.3. Lây truyền qua rau thai

- Như đã đề cập ở trên, lây truyền qua rau thai dường như chỉ gây ra một số ít các trường hợp nhiễm.

- Lây truyền có thể xảy ra khi có tổn thương rau thai, chẳng hạn như khi dọa sảy thai [46,47]. HBV đã được tìm thấy trong các tế bào nội mô mao mạch nhung mao và nguyên bào nuôi của rau thai [36,48]. Điều này ủng hộ giả thuyết rằng mất tính toàn vẹn của hàng rào rau thai là một cơ chế có thể để bị nhiễm trong tử cung. Kết quả là khi có chuyển dạ đẻ non hoặc sẩy thai tự nhiên, có thể có sự pha trộn của máu mẹ và thai nhi, qua đó có thể dẫn đến lây truyền HBV [46].

- Một nghiên cứu cho thấy HBV có thể dời chỗ qua rau thai từ mẹ sang nguyên bào nuôi của thai [49]. Các nguyên nhân gây nhiễm qua rau thai còn chưa rõ ràng. Tải lượng virus mẹ cao và chuyển dạ đẻ non đã được mô tả là các yếu tố nguy cơ, nhưng cường độ của các mối liên quan này còn chưa chắc chắn [36,44].

6.3.4. Chọc ối và các thủ thuật khác

- Đã có mô tả lây truyền sau chọc ối, nhưng nguy cơ có vẻ thấp [50], nhất là khi bà mẹ có HBeAg âm tính và thủ thuật được thực hiện bằng kim cỡ 22 có hướng dẫn liên tục [51].

- Trong một nghiên cứu minh họa, phụ nữ có HBV được chọc ối có tỷ lệ lây truyền dọc không khác biệt đáng kể so với phụ nữ có HBV không được chọc ối (9% so với 11%) [52].

- Ảnh hưởng của các thủ thuật xâm lấn khác trong thai kỳ (ví dụ lấy mẫu nhung mao màng đệm, chọc dây rốn, phẫu thuật thai nhi) lên nguy cơ lây truyền này còn chưa rõ.

6.3.5. Vỡ ối sớm

Có ít dữ liệu về vỡ ối sớm như là một yếu tố nguy cơ lây truyền HBV, và dữ liệu hiện có thì mâu thuẫn [53,54]. Kết quả là việc xử trí những bệnh nhân này không khác biệt so với những phụ nữ có HBV mạn tính nhưng không vỡ ối sớm.

6.3.6. Bú mẹ

- Bú mẹ dường như không làm tăng nguy cơ lây truyền.

- Mặc dù đã phát hiện thấy HBV DNA trong sữa non của bà mẹ HBsAg dương tính, một nghiên cứu trên 147 trẻ sinh ra từ mẹ mang HBV cho thấy không có bằng chứng về mối liên hệ giữa bú mẹ và sự xuất hiện nhiễm HBV mạn tính sau đó ở các em bé [55].

- Trong một nghiên cứu khác trên 369 trẻ sơ sinh có mẹ nhiễm HBV mạn tính, trong đó tất cả trẻ đều nhận và hoàn thành chương trình dự phòng miễn dịch HBV, không có trẻ nào trong số 101 trẻ nhũ nhi bú mẹ và không có trẻ nào trong số 9 trẻ dùng sữa công thức dương tính với HBsAg [56].

- Những quan sát này gợi ý rằng những trẻ được dùng HBIG và liều vắc xin đầu tiên khi sinh thì có thể bú sữa mẹ, miễn là phải hoàn tất quá trình tiêm chủng, nhưng bà mẹ mang HBV thì không nên tham gia hiến tặng sữa mẹ [40].

- Những bà mẹ có ý định cho con bú thì không nên trì hoãn cho đến khi trẻ được tiêm chủng đầy đủ. Bà mẹ bị viêm gan B mạn tính đang cho con bú cũng cần phải tập chăm sóc phòng ngừa chảy máu khi nứt núm vú. Tính an toàn của các thuốc tương tự nucleos(t)ide đối với các em bé được nuôi bằng sữa mẹ đã trình bày ở phần 5.3.3.

6.3.7. Mổ đẻ

Các thử nghiệm đối chứng có chất lượng chưa chắc chắn liệu mổ đẻ có ngăn ngừa được lây truyền mẹ con [57,58]. Do đó không nên khuyến cáo mổ đẻ thường quy cho các bà mẹ mang HBV.

6.4. Phòng lây truyền chu sinh

- Cần làm xét nghiệm HBsAg cho tất cả phụ nữ đến khám thai lần đầu và làm lại lúc cuối thai kỳ cho những người có nguy cơ cao bị nhiễm HBV.

- Trẻ sơ sinh có mẹ mang HBV sẽ được tiêm chủng gây miễn dịch thụ động-chủ động. Bên cạnh tiêm chủng gây miễn dịch thụ động-chủ động theo tiêu chuẩn, cần cho những người mẹ có nồng độ HBV DNA cao được điều trị kháng virus vì nó có thể làm giảm hơn nữa nguy cơ lây truyền chu sinh. Tuy nhiên, cần có thêm dữ liệu để làm rõ ngưỡng HBV DNA khuyến cáo điều trị kháng virus cho phụ nữ mang thai có HBV mạn tính.

- Ngày càng có nhiều thử nghiệm tìm hiểu vai trò của việc cho thêm điều trị kháng virus bên cạnh tiêm chủng gây miễn dịch thụ động-chủ động theo tiêu chuẩn. Một số nghiên cứu đã xem xét dự phòng lamivudine vào cuối thai kỳ [59,60]. Một phân tích hậu cứu 10 nghiên cứu đã kết luận rằng việc bổ sung lamivudine cho người mẹ vào cuối thai kỳ bên cạnh tiêm vắc xin viêm gan B và dự phòng HBIG làm giảm đáng kể lây truyền từ mẹ sang con [59]. Tiêu chí đầu ra được ưa chuộng để chứng tỏ sự lây truyền HBV từ mẹ sang con là sự hiện diện của HBsAg lúc 9 đến 12 tháng sau sinh, thì mới chỉ được báo cáo trong năm nghiên cứu. Hiệu quả tổng thể ủng hộ việc dự phòng lamivudine khi các nghiên cứu này được kết hợp lại (RR 0,31, KTC 95% 0,15-0,63). Lợi ích tương tự đã được mô tả với telbivudine, mặc dù có ít nghiên cứu hơn [19,20].

- Lựa chọn thuốc dự phòng
+ Trong số các thuốc uống hiện có, telbivudine và tenofovir là thuốc nhóm B trong thai kỳ, trong khi các thuốc khác thuộc nhóm C.
+ Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, dữ liệu còn hạn chế trên người cho thấy trẻ phơi nhiễm với tenofovir hoặc lamivudine trong ba tháng đầu thai kỳ không thấy khác biệt gì về tỷ lệ dị tật bẩm sinh ở trẻ đẻ sống so với quần thể chung.
+ Tenofovir được ưu tiên hơn lamivudine vì rào cản đề kháng cao hơn và những bà mẹ trẻ này có thể cần điều trị kháng virus cho bệnh gan của mình trong tương lai.
+ Nói chung cho thuốc dự phòng cho những phụ nữ có nồng độ virus cao (≥ 8 log10 U/ml), có thể cân nhắc khi nồng độ virus thấp hơn (từ khoảng 6 log10 U/mL).
+ Tốt nhất nên bắt đầu điều trị 6-8 tuần trước khi sinh để cho phép có đủ thời gian làm giảm nồng độ HBV DNA.

Address

Ho Chi Minh City

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Cuộc Sống End Y Khoa posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram