Trung tâm thiền Gosinga Thiên Phước

Trung tâm thiền Gosinga Thiên Phước Trước khi là trung tâm thiền, đây là khu nghỉ dưỡng với không gian xanh mát trồng nhiềucây thuốc Nam
(1)

HỮU ÁI & ĐOẠN TẬN HỮU ÁI1. HỮU ÁI LÀ GÌ?Là tham ái sự sống, sự hiện hữu.Trong hiểu biết vô minh của Phàm phu: sự sống là...
07/12/2024

HỮU ÁI & ĐOẠN TẬN HỮU ÁI

1. HỮU ÁI LÀ GÌ?

Là tham ái sự sống, sự hiện hữu.

Trong hiểu biết vô minh của Phàm phu: sự sống là mầu nhiệm, là cao cả, là sản phẩm tuyệt vời của tạo hoá. Sống là Hạnh phúc, sống là khám phá và tận hưởng hạnh phúc của thế giới mầu nhiệm. Chết là chấm hết, là mất tất cả, là đau khổ, là một khoảng tối bí hiểm, đầy đe dọa, khủng khiếp, đầy sợ hãi. Chính vì bị chi phối bởi hiểu biết vô minh, không đúng sự thật như vậy mà nhân loại khao khát sống, mong muốn sống, bám víu sự sống. Đây là tham ái sự sống, sự hiện hữu mà thuật ngữ Phật học Hán Việt gọi là HỮU ÁI. Những thông tin Hữu ái này đã được lưu giữ trong kho chứa ADN từ vô thuỷ và nó đều được tăng cường qua các kiếp sống. Khi con người khoẻ mạnh, lượng thông tin Hữu ái ở yên trong kho chứa nhưng khi có những nhân tố bên ngoài xuất hiện như bệnh tật, hấp hối... vv thì Niệm (trí nhớ) sẽ kích hoạt các thông tin đó lên, làm phát sinh nỗi đau khổ vì sợ chết.

Chính sự khao khát sống, mong muốn sống, bám víu sự sống (Hữu Ái) làm phát sinh nỗi sợ chết kinh hoàng là nguyên nhân đưa đến tái sanh, làm phát sanh Thức Tái Sanh lúc chết, mà thực chất là một Hoá Sanh, tiếp tục luân hồi sanh tử, tiếp tục nỗi khổ của Hoá Sanh và nỗi khổ của Sinh Già Bệnh Chết.

DỤC ÁI chi phối mãnh liệt đời sống nhân loại, là nguyên nhân phát sinh nỗi thống khổ của con người nhưng HỮU ÁI còn chi phối mãnh liệt hơn, là nguyên nhân phát sinh nỗi thống khổ còn mãnh liệt hơn nhiều. Ví như một người có tài sản 5 tỉ đô la mà họ suốt đời lao tâm khổ trí để tích góp và họ ràng buộc mãnh liệt đối với khối tài sản đó. Nhưng nếu họ đến bác sĩ, sau khi đã làm các xét nghiệm đầy đủ, với mọi số liệu chính xác, bác sĩ kết luận, anh ta chỉ còn sống tối đa một tháng nữa thôi thì chắc chắn rằng, nếu có một sự mầu nhiệm nào đó mà anh ta hết bệnh, sống mạnh khoẻ như xưa thì anh ta sẵn sàng đánh đổi 5 tỉ đô la kia để đổi lấy sự sống.

Những người Duy vật cực đoan tin rằng chết là hết, chết không có gì đáng sợ, nhưng chính những người này lại sợ hãi, đau khổ vô cùng tận khi giáp mặt cái chết. Nguyên nhân nỗi khổ của con người là Tham ái, do tham ái mà Nắm giữ nên khổ vì Sợ Mất và khổ khi bị Mất. Mất cái gì? Mất Lợi, mất Danh, mất Sự Sống. Người Duy vật cực đoan khi trong đời sống, mất Lợi Danh đã rất đau khổ thì khi giáp mặt với cái chết, mất tất cả lợi danh, thân xác, sự sống, mất cả thế giới mầu nhiệm này, mất con mắt, mất cả trời xanh mây trắng để nhìn... còn lại một khoảng tối đen ngòm không hề biết là cái gì... Tất cả những cái đó sẽ làm phát sinh nỗi sợ hãi vô cùng tận, nó lớn lao gấp nhiều lần so với người tin rằng TA vẫn còn tái sinh trong đời sau. Cho dù tin rằng chết là hết, nhưng những người đó khi chết vẫn phát sanh Thức Tái Sanh vì HỮU ÁI là nguyên nhân của tái sanh đang chi phối họ.

HỮU ÁI là nguyên nhân phát sinh nỗi khổ kinh hoàng khi nghĩ tưởng về cái chết và khi giáp mặt thật sự với cái chết. Không chỉ có vậy, chính HỮU ÁI là nguyên nhân phát sinh Thức Tái Sinh, thực chất là Hoá Sanh phải lãnh chịu nỗi thống khổ mà kinh nghiệm của đời sống thế gian khó hình dung ra được một cách đầy đủ. Cho dù là cảnh giới chư thiên vẫn còn bị tham ái Dục lạc chi phối nên vẫn thích ghét, vui buồn... vẫn khao khát ăn uống, tình dục... nhưng Hoá sanh không hề được thỏa mãn cho dù một chút xíu, vì tất cả chỉ là "cảnh ảo", giống như nhìn thấy trên màn hình ti vi mà không ăn được, không cầm nắm được, không sử dụng được. Do HỮU ÁI mà sau khi Danh Sắc của Hoá Sanh diệt lại phát sinh một Danh Sắc khác là trứng sinh hay thai sanh tiếp tục luân hồi sanh tử, tiếp tục nỗi khổ Sinh Già Bệnh Chết, nỗi khổ của Luân hồi tái sanh.

2. LÀM SAO ĐỂ CHẤM DỨT HỮU ÁI?

Chấm dứt Hữu Ái chính là Chấm dứt Khổ. Con đường chấm dứt Hữu Ái là Bát Chánh Đạo. Chi phần đóng vai trò chính để chấm dứt Hữu Ái là Chánh Kiến, còn được gọi là Trí Tuệ, là Minh. Trong một bản Kinh, Đức Phật đã dạy: Ai thấy tư tưởng sanh y khởi lên mà đoạn diệt chậm chạp, Ta nói người đó vẫn ràng buộc với sanh y. Ai thấy tư tưởng sanh y khởi lên, đoạn diệt nhanh chóng ví như một cái chảo đã nung nóng đỏ, nhỏ một vài giọt nước thì "xèo" thành hơi ngay, Ta nói người này vẫn còn ràng buộc bởi sanh y. Và Ngài dạy rằng: Ai thấy biết như thật, SANH Y LÀ KHỔ, người ấy trở thành VÔ SANH Y. Trí tuệ thấy biết như thật SANH Y LÀ KHỔ chính là giác ngộ Khổ đế và Tập đế, thấy biết như thật CHẤM DỨT SANH Y là CHẤM DỨT KHỔ là giác ngộ Diệt đế và Đạo đế.

Thấy biết như thật Sanh Y Là Khổ, còn hiện hữu là còn khổ, còn tái sanh là còn khổ, cho đến một vị A La Hán đã chấm dứt Khổ do Tham ái nhưng đang còn tuổi thọ, đang còn hiện hữu thì vẫn còn cảm nhận một số cảm giác khó chịu (Khổ thọ) do Nội và Ngoại xúc trần phát sinh. Đó là cái khổ còn dư sót (Hữu dư Niết bàn) tuy rất ít ỏi ví như đất trên đầu móng tay so với đất trên quả đất (ví cho khổ do tham ái đã diệt). Chỉ khi Nhập diệt, Danh Sắc của vị đó diệt, không còn phát sinh một Danh Sắc nào nữa, KHÔNG CÒN HIỆN HỮU thì lúc đó mới Khổ diệt hoàn toàn, mới Vô dư Niết bàn.

Điều này có thể hình dung ra với ví dụ sau: Ai cũng đã từng kinh nghiệm một ngày nào đó, tràn đầy hạnh phúc, rất ít đau khổ phiền nhiễu từ sáng cho đến 10 giờ đêm. Nhưng sau đó từ 10 giờ đêm cho đến 6 giờ sáng hôm sau, ngủ một giấc say, không mộng mị. Rõ ràng khách quan mà xem xét thì thời gian từ 10 giờ đêm đến 6 giờ sáng "tuyệt hơn" rất nhiều thời gian từ sáng đến 10 giờ đêm, tuy rất nhiều hạnh phúc nhưng vẫn còn phiền nhiễu, còn phải ăn, đại tiện, tiểu tiện, vẫn phải chịu đựng mệt mỏi, nóng lạnh... Thời gian từ sáng đến 10 giờ đêm là HIỆN HỮU có vui có khổ, thời gian từ 10 giờ đêm tới sáng là KHÔNG HIỆN HỮU là không có gì cả, không có khổ lẫn vui. Nếu một người ngủ say không mộng mị như vậy mãi mãi thì cũng chấm dứt tất cả mọi lo toan, sợ hãi, toan tính, ràng buộc, chấm dứt cả hạnh phúc cũng như đau khổ, chấm dứt cả dòng luân hồi sinh tử. Một vị A La Hán nhập diệt hình dung cũng y như vậy, như một giấc ngủ say không mộng mị, vĩnh viễn, không còn đời sau, không còn hiện hữu với bất cứ hình thức nào, bất cứ nơi chốn nào.

Đa phần người tu học Phật chỉ mới nhận thức DỤC ÁI là Nguyên nhân Khổ, rất ít người nhận thức được HỮU ÁI là nguyên nhân phát sinh khổ khốc liệt hơn rất nhiều. Đoạn trừ DỤC ÁI chưa có thể chấm dứt được luân hồi tái sinh, chỉ đoạn trừ HỮU ÁI mới chấm dứt luân hồi tái sinh. Trong Pháp Cú có đoạn:

"Sau khi giết mẹ cha.

Giết hai vua Sát ly.

Giết dân chúng quần thần.

Vô ưu Phạm chí sống".

Ẩn dụ của câu đầu là Cha và Mẹ sinh ra chúng sinh trong dòng luân hồi sinh tử chính là VÔ MINH và HỮU ÁI và vị A La Hán, là vị đã đoạn trừ VÔ MINH và HỮU ÁI, đồng nghĩa với giết mẹ cha. Vì chưa thấy biết như thật HỮU ÁI nên các chú giải đã găm vào đầu óc đa số người tu là phải tu nhiều đời nhiều kiếp nữa, và vì vậy đa phần người tu đang chăm bẵm, đang nuôi dưỡng cho cái MẦM TÁI SANH bụ bẫm, tràn đầy sinh lực cho đời sau. Ví như, chủ trương giữ giới không sát sinh để bảo vệ sự sống của chúng sanh, để đời sau sinh ra được khoẻ mạnh, không bệnh tật, được trường thọ, được phước báu hạnh phúc trong tương lai thực chất phát sinh từ DỤC ÁI và HỮU ÁI do hiểu biết nguyên nhân khổ là do ngoại cảnh, do thiếu phước chứ không thấy biết được lời dạy của Phật, Dục ái và Hữu ái là Nguyên nhân Khổ.

Người trí thấy biết như thật còn sanh y là còn khổ thì sẽ "lông tóc dựng ngược" và sẽ nhất hướng nhàm chán sanh y, sẽ chỉ còn một tâm niệm duy nhất là phấn đấu nỗ lực để đây là kiếp sống cuối cùng, không còn tái sinh lại nữa. Sự nhất hướng đó sẽ cắt đứt MẦM TÁI SINH ngay trong hiện tại này.

Người trí biết rõ đích đến là như vậy, hàng ngay tu tập Chỉ và Quán, đặc biệt là tiến trình chết thì sẽ không còn tham sống sợ chết. Người đó sẽ đón nhận cái chết do bất kỳ lý do gì như là một cơ hội giải thoát tối hậu, VÔ THƯỢNG AN ỔN THOÁT MỌI KHỔ ÁCH.

- THIỀN SƯ NGUYÊN TUỆ

(Trích bài viết ĐOẠN TẬN BA ÁI) https://www.facebook.com/thiensunguyentue/posts/122197528801565

--


⚡️Trong Phật giáo, giáo lý mà Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng nói đến luân hồi, bàn đến các nổi khổ của luân hồi, ...
06/12/2024

⚡️Trong Phật giáo, giáo lý mà Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng nói đến luân hồi, bàn đến các nổi khổ của luân hồi, chấm dứt các nổi khổ trong kiếp luân hồi. Không những chấm dứt nổi khổ trong kiếp này, mà còn chấm dứt sự luân hồi, chấm dứt các nỗi khổ của các kiếp luân hồi.

❓Đức Phật phủ nhận, không có linh hồn, không có bản ngã, không có một thực thể gì cố định, thường hằng, thường trú ở đâu cả. Vậy sau khi con người qua đời, cái gì đi luân hồi tái sinh?
✅ Cái thoát ra khỏi người chết gồm 2 phần:
- Sắc (Vật chât): vật chất lưỡng tử có lưỡng tính sóng - hạt, đóng vai trò như thế bào thần kinh não bộ.
- Danh (tinh thần): thông tin di truyền và thông tin pháp trần.

Lượng thông tin di truyền và thông tin pháp trần tương tác với nhau phát sinh ra lộ trình tâm, có cảm giác pháp trần và tưởng thức (như khi nằm mơ).
Vì vậy các thoát ra đó có lộ trình tâm, có tâm biết Tưởng thức và tâm biết Ý thức cho nên đó gọi là THỨC TÁI SINH.
Sau khi chết phát sinh Thức Tái Sinh như vậy gọi là HOÁ SANH.
✅ Hoá sanh kết hợp với hợp tử (trứng và tinh trùng đã kết hợp) phát sinh bào thai.
Bào thai phát triển chịu ảnh hưởng 4 loại thông tin:
- Thông tin di truyền của cha.
- Thông tin di truyền của mẹ.
- Thông tin di truyền của hoá sanh.
- Thông tin pháp trần của hoá sanh.

Vậy cái gì đi tái sinh?
Là lượng thông tin đi tái sinh. Bao gồm lượng thông tin di truyền và lượng thông tin pháp trần.
Chứ KHÔNG phải có một linh hồn, có một tâm thức không sinh không diệt nào đi đầu thai cả.

(Biên tập từ bài giảng LUÂN HỒI TÁI SINH - thiền sư Nguyên Tuệ)

P/s: Tham khảo bài viết ĐỨC PHẬT PHỦ NHẬN LINH HỒN, BẢN NGÃ - Sư NGUYÊN TUỆ)
👉 https://www.facebook.com/thiensunguyentue/posts/138272583860726


NGHIỆP NHÂN VÀ NGHIỆP QUẢ- THIỀN SƯ NGUYÊN TUỆ 1./ QUẢ CỦA NGHIỆPCuộc sống của mỗi một người nếu chưa giải thoát là kết ...
05/12/2024

NGHIỆP NHÂN VÀ NGHIỆP QUẢ

- THIỀN SƯ NGUYÊN TUỆ

1./ QUẢ CỦA NGHIỆP

Cuộc sống của mỗi một người nếu chưa giải thoát là kết quả của các nghiệp đã tạo tác trong quá khứ. Kết quả ấy có quả khổ, quả vui, quả không khổ không vui. Quả khổ, quả vui hoặc quả không khổ không vui phát sinh khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần theo lộ trình tâm bát tà đạo.

Xúc - thọ_tưởng - tà niệm - tà tư duy - tà kiến - tham, sân, si.

• Khi có một cảm thọ khởi lên đưa đến cái biết ý thức nhị nguyên (tà kiến) xác định đối tượng đó là dễ chịu (lạc thọ) thì thích thú. Đây là thọ lãnh quả vui.

• Đối tượng đó là khó chịu (khổ thọ) thì chán ghét. Đây chính là thọ lãnh quả khổ.

• Đối tượng đó là trung tính (bất khổ bất lạc thọ) thì không yêu thích cũng không chán ghét. Đây chính là thọ lãnh quả không khổ không vui.

Nói một cách nôm na:

• Khi nhìn thấy sắc đẹp là quả vui, sắc xấu là quả khổ, sắc không đẹp không xấu là quả không khổ không vui.

• Khi nghe âm thanh hay là quả vui, âm thanh dở là quả khổ, âm thanh không hay không dở là quả không khổ không vui.

• Khi mũi ngửi mùi thơm là vui, thối là khổ, và không thơm không thối là quả không khổ không vui.

• Khi lưỡi nếm vị ngon là vui, dở là khổ, không ngon không dở là không khổ không vui.

• Thân xúc chạm với xúc trần dễ chịu là vui khó chịu là khổ, không dễ chịu không khó chịu là không khổ không vui.

• Khi ý tiếp xúc với pháp, thích tư tưởng đó là vui, ghét tư tưởng đó là khổ và khi không thích không ghét là quả không khổ không vui.

Kể cả lúc ngủ mơ cũng có quả vui quả khổ và quả không khổ không vui tương tự như vậy.

Như vậy quả của nghiệp có thể có ba loại: khổ, vui, và không khổ không vui. Có thể có cách xếp loại khác là quả thiện, quả ác và quả không thiện không ác (vô ký) nhưng hiểu được quả theo cách phân loại này rất khó khăn, chưa có một thuyết minh rõ ràng hợp lý để phân biệt được ba loại quả thiện, ác, vô ký. Trong hai cách phân loại quả của nghiệp này không được đồng hóa quả vui với quả thiện, quả khổ với quả ác, vì rằng quả vui chưa chắc đã là quả thiện và quả thiện chưa chắc là quả vui. Ví như tên trộm vui mừng khi thấy đồ mình ăn trộm được thì đó là vui nhưng không thiện, hoặc một người cứu người khác mà bị gãy tay là khổ nhưng không ác.

2./ NGHIỆP NHÂN

Nếu một người trước đây họ thích thú ăn mắm tôm thì trong kho chứa của họ có những thông tin về mùi, vị mắm tôm với hiểu biết là nó ngon lành thơm tho hấp dẫn. Khi lưỡi người đó tiếp xúc với mắm tôm, cảm giác vị và thiệt thức khởi lên, sau đó Niệm kích hoạt thông tin này cho Tư duy đối chiếu với thông tin về cảm giác vị vừa phát sinh và khởi lên ý thức: vị này rất ngon và người này đang thọ lãnh quả vui. Nếu một người đã từng rất ghét khi ăn mắm tôm thì trong kho chứa của họ lưu giữ thông tin vị mắm tôm thật kinh tởm. Nếu lưỡi người này tiếp xúc với mắm tôm, lộ trình tâm khởi lên tương tự và đưa đến ý thức: vị này thật ghê tởm và người này đang thọ lãnh quả khổ. Chính lượng thông tin về vị của mắm tôm trong kho chứa của mỗi người là nhân đưa đến quả khổ quả vui của họ.

Có hai thanh niên cùng nhìn một cô gái nhưng có hai thái độ khác nhau, một người thích thú là thọ lãnh quả vui, một người chán ghét là thọ lãnh quả khổ. Sự khác nhau này là do sự khác nhau về lượng thông tin trong kho chứa: quan niệm về cái đẹp của phụ nữ của họ trái ngược nhau, vì vậy tuy nhãn thức thấy cảm giác hình ảnh của hai người này khá giống nhau nhưng cái biết ý thức nơi họ khác nhau vì niệm và tư duy kích hoạt và sử dụng hai loại thông tin khác nhau.

Vậy cái gì là nghiệp nhân làm phát sinh nghiệp quả? Nghiệp nhân chính là lượng thông tin chứa trong kho chứa bao gồm: vô minh, Ta của ta, tri thức, kinh nghiệm, thói quen v.v… Lượng thông tin này được lưu giữ ở trong cấu trúc ADN của tế bào. Sau mỗi lộ trình tâm nó cũng tăng lên, giảm đi tùy theo sự vận hành. Lượng thông tin này chính là nghiệp chủ yếu do hành động về thân (thân nghiệp) do lời nói (khẩu nghiệp) và do tâm ý (ý nghiệp) lưu vào.

3./ SỰ VẬN HÀNH TỪ NGHIỆP NHÂN ĐẾN NGHIỆP QUẢ

Nghiệp chính là lượng thông tin được lưu giữ trong cấu trúc ADN của mỗi tế bào trong cơ thể, một mình nó không thể phát sinh ra quả vì không thể có một nhân sinh quả mà phải có hai nhân tiếp xúc với nhau (tương tác với nhau) mới phát sinh ra quả. Vì vậy khi có căn trần tiếp xúc phát sinh cảm giác và cái biết trực tiếp (Tưởng), lượng thông tin này sẽ được truyền dẫn vào tế bào thần kinh não bộ và tại đây sẽ phát sinh sự tiếp xúc hay tương tác giữa hai lượng thông tin đưa đến phát sinh niệm, tư duy, ý thức, tức phát sinh nghiệp quả. Vậy nghiệp chính là một nhân trong hai nhân phát sinh ra quả theo lộ trình tâm Bát tà đạo.

Ngoài trường hợp căn trần tiếp xúc, lượng thông tin được truyền dẫn theo dây thần kinh dẫn truyền vào kho chứa có một số trường hợp đặc biệt, phi nhân hoặc người có tha tâm thông có thể phát đi thông tin và truyền dẫn “không dây” vào kho chứa thông tin của người đó, làm phát sinh sự tương tác giữa hai loại thông tin và cũng làm phát sinh nghiệp quả. Nghiệp nhân là lượng thông tin lưu giữ trong kho chứa, nếu một mình nó sẽ không cho quả, phải có thêm nhân khác và đủ duyên (tương tác được với nhau) mới cho quả, vì vậy có những nghiệp nhân cho quả ở lộ trình tâm sau đó, nhưng cũng có nghiệp nhân phải một thời gian dài hoặc thậm chí nhiều đời sau mới trổ quả. Có những nghiệp nhân chỉ trổ quả chỉ một lần, có những nghiệp nhân trổ quả nhiều lần.

-- Một người có cảm giác khát nước thì lộ trình tâm khởi lên lưu thông tin khát nước vào kho chứa và nó là một nghiệp nhân. Khi người đó uống nước, phát sinh một cảm giác mát mẻ, lộ trình tâm này phát sinh quả vui và thông tin này được lưu vào kho chứa và xóa đi thông tin về khát nước. Như vậy nghiệp nhân này chỉ trổ quả có một lần rồi diệt.

-- Hai vợ chồng đang cãi nhau căng thẳng thì những thông tin đó được lưu vào kho chứa và là nghiệp nhân. Ngay lúc đó người con trai họ đi làm xa đã nhiều năm trở về, mang một va li đầy tiền. Lúc này lộ trình tâm phát sinh quả vui lưu vào kho chứa đồng thời xóa luôn thông tin cãi nhau, nghiệp nhân vừa được lưu vào trước đó.

-- Một đôi vợ chồng cãi nhau kịch liệt và những thông tin đó lưu vào kho chứa là nghiệp nhân cho quả khổ phát sinh. Người chồng sau đó tiếp tục giận dữ, đau khổ nên bỏ nhà đi chơi. Suốt ngày đó, suốt đêm đó anh ta tìm tới bạn bè ăn nhậu, chơi bời. Tuy các lộ trình tâm về ăn nhậu và chơi bời là chính nhưng cũng có rất nhiều lộ trình tâm có sự “tiếp xúc” với nghiệp nhân kia nên quả khổ vẫn tiếp tục khởi lên. Hôm sau anh ta vẫn không về nhà vì lộ trình tâm khởi lên quả khổ do cãi nhau với vợ vẫn còn, nhưng nó ít hơn ngày hôm trước. Tối ngày thứ hai anh ta mệt mỏi trở về nhà và ngủ một giấc rất ngon sau hai ngày lang bạt. Sáng ngày thứ ba tỉnh dậy không còn buồn khổ nữa, anh ta làm lành với vợ. Như vậy nghiệp nhân này trổ quả hai ngày liên tục mới “cạn kiệt” đi.

4./ LỘ TRÌNH BÁT CHÁNH ĐẠO VÔ HIỆU HÓA NGHIỆP NHÂN

Nghiệp nhân phát sinh nghiệp quả được vận hành trên lộ trình tâm Bát tà đạo cho quả khổ, quả vui, quả không khổ không vui. Trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo nhờ Chánh niệm kích hoạt Minh cho Chánh tư duy phân tích so sánh đối chiếu nên đưa đến cái biết Chánh kiến. Chánh kiến này làm cho người tu an trú được Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát nên vị ấy hoàn toàn bình thản không còn quả khổ, quả vui, quả không khổ không vui nữa. Đối với vị hữu học khi vị ấy an trú bốn niệm xứ, lộ trình tâm Bát chánh đạo có Chánh niệm, Chánh tư duy vẫn sử dụng những tri thức kinh nghiệm nhưng vì ‘Vô minh, Ta, của Ta’ đã được nhiếp phục nên những tri thức kinh nghiệm này đã được thanh lọc nên không còn phát sinh quả khổ, quả vui, quả không khổ không vui. Đối với vị vô học, ‘Vô minh, Ta, của Ta’ đã bị đoạn diệt hoàn toàn nên các tri thức kinh nghiệm trong kho chứa đã được thanh lọc hoàn toàn nên không còn trổ quả khổ, quả vui hay quả không khổ không vui nữa.

Ví như người thứ nhất ăn mắm tôm thọ lãnh quả vui, người thứ hai thọ lãnh quả khổ, người thứ ba nếu có tu tập Tứ niệm xứ, thì sau khi lưỡi tiếp xúc với mắm tôm phát sinh cảm giác vị và cái biết trực tiếp thiệt thức, Chánh niệm sẽ khởi lên làm phát sinh chánh tinh tấn, làm phát sinh Chánh định. Do có sự chú tâm (Chánh định) mà lộ trình tâm xảy ra là:

Xúc → Cảm giác vị - Thiệt thức → Chánh niệm → Chánh tinh tấn → Chánh định → Tỉnh giác.

Lộ trình tâm chỉ dừng lại cái biết trực tiếp gọi là tỉnh giác, một cái biết không ngôn từ, tri thức, khái niệm do căn trần tiếp xúc mà phát sinh, không liên quan gì đến kho chứa thông tin. Lúc này người này an trú cái biết Tỉnh giác hay an trú Tâm giải thoát và như vậy không có quả khổ, quả vui ở đây. Vì vậy việc tu tập đi đến giải thoát không phải là trả hết nghiệp trong quá khứ hay chuyển nghiệp mà là thanh lọc lượng thông tin gọi là nghiệp đó khỏi ‘vô minh, ta, của ta’.

(Trích sách 'Pháp hành Tứ Niệm Xứ')


BẢN NGÃ- THIỀN SƯ NGUYÊN TUỆMục đích của Pháp mà Đức Thế Tôn đã chứng ngộ và khéo léo thuyết giảng là để LIỄU TRI tất cả...
05/12/2024

BẢN NGÃ

- THIỀN SƯ NGUYÊN TUỆ

Mục đích của Pháp mà Đức Thế Tôn đã chứng ngộ và khéo léo thuyết giảng là để LIỄU TRI tất cả các sự vật, hiện tượng hay liễu tri tất cả pháp. Đức Phật đã đưa ra một công thức mẫu về Liễu Tri Khổ, để người tu học có thể áp dụng, ngõ hầu có thể liễu tri mọi pháp. Liễu Tri Khổ là phải hiểu biết đúng sự thật về bốn khía cạnh của Khổ. Đó là:

- Sự thật Khổ (Khổ đế)

- Sự thật Khổ tập khởi (Nguyên nhân Khổ, Tập đế)

- Sự thật Khổ đoạn diệt (Khổ chấm dứt, Diệt đế)

- Sự thật Con đường Khổ diệt (Đạo đế)

Vậy, để Liễu Tri pháp được gọi là Bản Ngã, phải tuệ tri bốn khía cạnh tương tự: Sự thật về Bản ngã; Sự thật Bản ngã tập khởi; Sự thật Bản ngã đoạn diệt; Sự thật Con đường Bản ngã đoạn diệt.

1 - HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT VỀ BẢN NGÃ

Tất cả nhân loại (chỉ ngoại trừ các bậc Thánh Phật giáo) đang từng giây phút sống với một cái TA đồng nhất từ quá khứ, hiện tại cho đến vị lai. Cái TA ấy được nhân loại cho là tự có, không được sinh ra cũng không bị mất đi, nên tiếng Tàu gọi là BẢN NGÃ hay Tự Ngã. Bản Ngã ấy có mặt nơi tâm biết Ý thức có “Chủ thể và Đối tượng” của con người. Ví như, Ta thấy - ngôi nhà, Ta nghe - tiếng ngựa phi, Ta nếm - vị ngọt của quả xoài, Ta biết - cô bé rất xinh vv...

Cái Ta, Bản ngã ấy là chủ nhân, chủ sở hữu của các loại tâm biết từ nhãn thức thấy, nhĩ thức nghe cho đến ý thức biết. Cái Ta, Bản ngã ấy còn là chủ nhân, chủ sở hữu của các tâm hành như: Ta nhớ đến, Ta thương, Ta ghét, Ta nói, Ta làm, Ta hạnh phúc, Ta khổ đau...

Không những vậy mà Cái Ta, Bản ngã ấy còn là chủ nhân, chủ sở hữu của các Đối tượng như: nhà của Ta, xe của Ta, con Ta, vợ Ta, tiền của Ta... Tâm biết ý thức cũng luôn luôn so sánh Cái Ta, Bản ngã ấy với Đối tượng nên có xác quyết Ta hơn, Ta kém, hay Ta bằng đối tượng.

Như vậy, tâm biết ý thức của con người luôn luôn có mặt một Cái Ta, Bản ngã với ba nội dung: TA BIẾT, CỦA TA, TA HƠN, TA KÉM, TA BẰNG mà kinh điển dùng tiếng Tàu là: Ngã kiến, Ngã sở kiến, Ngã mạn tuỳ miên. Vì vậy, khi đối diện với đối tượng Dễ chịu thì tâm biết ý thức sẽ khởi lên hiểu biết, trong đối tượng này có hạnh phúc, nó sẽ mang hạnh phúc đến cho Ta, nên sẽ phát sinh thái độ yêu thích (Tham), khi đối diện với đối tượng khó chịu thì hiểu biết, trong đối tượng này có khổ, nó sẽ mang đau khổ đến cho Ta, nên phát sinh thái độ chán ghét (Sân), khi đối diện đối tượng Trung tính thì biết rằng trong đối tượng này không có đau khổ nhưng cũng không có hạnh phúc, không mang hạnh phúc đến cho Ta nên phát sinh hành vi tìm kiếm đối tượng Dễ chịu để thay thế đối tượng Trung tính (Si). Đời sống nhân loại xoay quanh Cái Ta, Bản ngã ấy, nỗ lực để nuôi dưỡng, bảo vệ, phát triển, làm đẹp, hoàn thiện, vinh danh, ca ngợi Cái Ta, Bản ngã ấy.

Nhưng các pháp đều phát sinh theo quy luật Duyên khởi, nghĩa là do hai nhân bình đẳng tương tác rồi cùng diệt mới phát sinh, nên các pháp là vô thường, vô chủ vô sở hữu. Vì vậy không hề tồn tại một Cái Ta, Bản ngã không sinh không diệt là chủ nhân chủ sở hữu của các pháp Danh và Sắc, nghĩa là các pháp đó VÔ NGÃ. Vậy thì Cái Ta, Bản ngã mà nhân loại đang nuôi dưỡng, bảo vệ, vinh danh đó là cái gì? Đó chính là TƯ TƯỞNG CHẤP NGÃ của tâm biết ý thức tà kiến mà thôi, chứ không có một Cái Ta, Bản ngã nào hết.

Ví như, một ông chồng đang mắng chửi đánh đập vợ con, đập phá đồ đạc thì lúc đó tư tưởng chấp ngã của anh ta chỉ chấp thủ thân tâm này là Ta thôi, còn vợ con, nhà cửa, đồ đạc là Không Phải Ta. Lát sau đi ra khỏi nhà và bắt gặp một người đang nói xấu, bịa đặt, xúc phạm vợ con anh ta thì ngay lập tức anh ta sẽ phản kháng và cho kẻ kia một trận. Vì sao vậy? Vì lúc này tư tưởng chấp ngã của anh ta khởi lên chấp thủ thân tâm, vợ con, nhà cửa, đồ đạc đều là của Ta, là Ta. Tối đó anh ta xem trận đấu giải nhất nhì giữa Việt nam và Thái lan. Nếu Thái Lan thắng, anh ta sẽ tức giận chửi rủa, thậm chí đập bể cả Tivi, nhưng nếu Việt nam thắng anh ta sẽ sung sướng reo hò, gặp ai cũng bá vai bá cổ, ôm hôn thắm thiết kể cả người lúc chiều anh ta vừa gây gổ. Vì sao vậy? Vì giờ đây tư tưởng chấp ngã khởi lên, chấp thủ từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau đều là của Ta, là Ta cả. Nếu anh ta lên tàu vũ trụ bay quanh quả đất vài năm thì anh ta không còn phân biệt Việt Nam và Thái Lan mà tư tưởng chấp ngã của anh ta chấp thủ quả đất này là của Ta, là Ta.

Một cô nữ sinh đến trường với bộ quần áo đẹp đắt tiền rất hiếm, chỉ một mình cô ta có và được học sinh cả trường khen ngợi. Đương nhiên cô rất tự hào và sống với Bản ngã Ta hơn, nhưng sự thực không có một Bản ngã Ta hơn nào cả mà chỉ là tư tưởng chấp ngã, chấp thủ bộ quần áo đẹp hơn là Ta mà thôi vv...

Vậy thì không hề có một Cái Ta, Bản ngã đồng nhất từ quá khứ, hiện tại đến vị lai con người đã mặc định mà con người đang sống với tư tưởng chấp thủ Bản ngã, chấp thủ hoặc là Sắc, hoặc là Thọ, hoặc là Tưởng, hoặc là Hành, hoặc là Thức là của Ta, là Ta, là Bản ngã mà thôi.

Tư tưởng CHẤP NGÃ cũng đồng nghĩa với tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở hữu, nghĩa là Cái Ta, Bản ngã làm chủ, sở hữu, điều khiển các pháp. Chính vì vậy mà nhân loại không trừ một ai đang sống để làm chủ đời mình, làm chủ tương lai, làm chủ hạnh phúc, làm chủ bản thân, gia đình, xã hội, làm chủ thiên nhiên. Người tu thì tu tập để làm chủ thân khẩu ý, làm chủ tâm, làm chủ nghiệp, làm chủ cảm xúc, làm chủ sinh già bệnh chết. Mọi định chế, mọi luật lệ từ tổ chức Liên Hợp Quốc đến các quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương đến các cách cư xử quy định bất thành văn của một nhóm người đều đặt nền tảng trên quyền sở hữu. Mọi tranh chấp, xung đột từ quốc gia đến cấp độ cá nhân đều là xung đột về quyền sở hữu. Nhân loại đang sống với tư tưởng CHẤP NGÃ trái với sự thật VÔ NGÃ nên mâu thuẫn, xung đột với sự thật thực tại, vì thế mới có sầu bi khổ ưu não. Tư tưởng CHẤP NGÃ chấp thủ hoặc là Sắc, hoặc là Thọ, hoặc là Tưởng, hoặc là Hành, hoặc là Thức là của Ta, là Ta còn gọi là NĂM THỦ UẨN. Chính vì vậy, Đức Phật kết luận: Năm Thủ Uẩn Là Khổ.

2 - HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT VỀ BẢN NGÃ TẬP KHỞI:

Bản ngã chính là TƯ TƯỞNG CHẤP NGÃ có mặt nơi tâm biết ý thức tà kiến trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu. Hiểu biết đúng sự thật Bản ngã tập khởi là biết đúng như thật Nguyên nhân phát sinh tư tưởng chấp ngã, nghĩa là thuyết minh duyên khởi: do cái gì có mặt mà tư tưởng chấp ngã có mặt. Lộ trình tâm Bát Tà Đạo diễn ra như sau:

XÚC - [Thọ - Tưởng] - Tà niệm - Tà tư duy - [Ý thức tà kiến] - Tham sân si - Tà định - ...

Ý thức tà kiến do hai tâm hành Tà niệm - Tà tư duy mà phát sinh, nghĩa là Tà niệm có nhiệm vụ tìm kiếm, kích hoạt các thông tin “cái này là của ta, là ta” như mắt tai mũi lưỡi thân ý là của ta, là ta được lưu giữ trong kho chứa (bộ nhớ) tâm thức và Tà tư duy phân tích, so sánh, đối chiếu đối tượng với thông tin mà Tà niệm kích hoạt. Do vậy sẽ phát sinh tâm biết ý thức và tư tưởng Ta thấy, Ta nghe, Ta ngửi... chính là tư tưởng chấp ngã. Các tư tưởng chấp ngã này lại được lưu trở lại vào bộ nhớ tâm thức làm nhân cho Tà niệm kích hoạt ở lộ trình tâm sau.

3 - HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT VỀ BẢN NGÃ ĐOẠN DIỆT:

Đó là hiểu biết đúng sự thật: do cái gì không có mặt mà Bản ngã không có mặt nghĩa là Bản ngã đoạn diệt. Đó chính là khi Tà niệm - Tà tư duy - Ý thức tà kiến không có mặt thì Bản ngã không có mặt, Tà niệm - Tà tư duy - Ý thức tà kiến diệt thì Bản ngã diệt. Và đó cũng chính là lộ trình tâm Bát Tà Đạo diệt thì Bản ngã, tư tưởng chấp ngã diệt.

4 - HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT VỀ CON ĐƯỜNG BẢN NGÃ ĐOẠN DIỆT:

Đó là khi lộ trình tâm Bát Chánh Đạo khởi lên khi có Chánh niệm về Thân Thọ Tâm Pháp thì không còn tư tưởng chấp ngã, không còn Bản ngã.

- Với Chánh niệm về thân, nghĩa là Nhớ đến chú tâm quán sát thân nơi thân thì lộ trình tâm Bát Chánh Đạo gồm:

XÚC - [Thọ - Tưởng] - Chánh niệm - Chánh tích cực (tinh tấn) - Chánh định - (Tỉnh giác).

Lộ trình tâm chỉ có tâm biết Tỉnh giác “vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt” nên không tồn tại bất kỳ một tư tưởng nào, vì vậy tư tưởng chấp ngã, Bản ngã không có mặt.

- Với Chánh niệm về thọ, về tâm, về pháp nghĩa là Nhớ đến chú tâm quán sát Thọ Tâm Pháp thì lộ trình tâm Bát Chánh Đạo gồm:

XÚC - [Thọ - Tưởng] - Chánh niệm - Chánh tích cực - Chánh định - (Tỉnh Giác) - Chánh tư duy - Ý thức Chánh kiến - Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng.

Lộ trình tâm này có Ý thức Chánh kiến là tư tưởng vô chủ, vô sở hữu hay vô ngã nên không còn tồn tại tư tưởng chấp ngã, không còn tồn tại Bản ngã. Sự thật Con đường Bản ngã đoạn diệt đã chỉ rõ, chỉ khi nào thực hành Bát Chánh Đạo siêu thế lúc đó Bản ngã mới không có mặt, không hiện hữu. Lúc đó mới đoạn diệt Năm Thủ Uẩn, lúc đó mới đoạn diệt Khổ.


THẤY - BIẾT VÀ KINH PHÁP MÔN CĂN BẢN     Quá trình nhận thức một đối tượng xẩy ra theo hai giai đoạn: Nhận thức cảm tính...
04/12/2024

THẤY - BIẾT VÀ KINH PHÁP MÔN CĂN BẢN

Quá trình nhận thức một đối tượng xẩy ra theo hai giai đoạn: Nhận thức cảm tính đối tượng và Nhận thức lý tính đối tượng mà nói ngắn gọn là THẤY và BIẾT đối tượng, và quá trình xẩy ra theo tuần tự THẤY rồi mới BIẾT. Ví như một cái điện thoại tiếp xúc với mắt một đứa bé vừa sinh, Nhãn thức khởi lên THẤY hình ảnh đó nhưng BIẾT không khởi lên, đứa bé không BIẾT đối tượng là cái gì. Tương tự, người lớn cũng THẤY hình ảnh như đứa trẻ mới sinh nhưng sau khi THẤY, BIẾT sẽ khởi lên, BIẾT đối tượng là cái điện thoại với các đặc tính to hay nhỏ, trắng hay vàng, đẹp hay xấu...

1 - THẤY là nói gộp của Thấy, Nghe, Cảm Nhận đối tượng, bao gồm Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức, là TÂM BIẾT TRỰC TIẾP đối tượng, đối tượng như thế nào thì NHẬN BIẾT đối tượng như thế đó, không thêm bớt. ĐỐI TƯỢNG được THẤY là Thực tại, là Sự thật. THẤY của Phàm và Thánh đều giống nhau, nhưng Phàm thì gọi là Tưởng tri, Thánh gọi là Thắng tri hay Tỉnh giác.

2 - BIẾT là Ý thức, hiểu biết Đối Tượng được THẤY là cái gì, tính chất ra sao, là TÂM BIẾT GIÁN TIẾP đối tượng, do tư duy, suy luận mà có. BIẾT đối tượng có hai loại:

- BIẾT SAI, không đúng sự thật đối tượng, gọi là VÔ MINH thuộc Phàm phu, được ví như THẤY đối tượng vốn là "sợi dây" lại BIẾT là "con rắn". Vì vậy, đối tượng được biết của cái biết VÔ MINH là không có thật, là tưởng tượng, là lông rùa sừng thỏ. Đây là BIẾT của Nhân loại. THẤY và BIẾT của Nhân loại khởi lên theo lộ trình sau, trong đó "THẤY là Tưởng" và "BIẾT là Tà Tri Kiến".

XÚC - Thọ - Tưởng - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Tà Tri Kiến

- BIẾT ĐÚNG như thật đối tượng gọi là MINH thuộc bậc Thánh, đối tượng được biết là SỰ THẬT, là có thật, được ví như THẤY đối tượng vốn là "sợi dây" thì BIẾT nó là "sợi dây". Đây là BIẾT của Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng. Lộ trình khởi lên THẤY và BIẾT của bậc Thánh như sau, trong đó "THẤY là Tỉnh Giác" và "BIẾT là Chánh Tri Kiến"

XÚC - Thọ - Tưởng - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh Giác) - Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến.

Hãy ngay nơi Thực Tại, nơi Sự Thật, khám phá ra CÁI BIẾT VÔ MINH và CÁI BIẾT MINH để điều chỉnh, thay đổi CÁI BIẾT cho đúng với Sự Thật và như vậy sẽ điều chỉnh, thay đổi được cuộc sống của mình, chấm dứt được Khổ.

3 - KINH PHÁP MÔN CĂN BẢN thuộc Trung Bộ Kinh, là bản kinh quan trọng bậc nhất mà Đức Phật đã thuyết giảng. Nội dung của bản Kinh nói về THẤY và BIẾT.

- Đối với Phàm phu: THẤY là Tưởng tri đối tượng, BIẾT là Tà Tri Kiến, là Vô Minh, Không Liễu Tri đối tượng và do BIẾT là Vô Minh, Không Liễu Tri đối tượng mà có Dục Hỷ đối tượng (Muốn có Niềm vui, Hạnh phúc từ đối tượng). Chính Dục Hỷ đối tượng là Căn bản của Khổ.

- Đối với vị Hữu học: THẤY là Thắng tri đối tượng (Tỉnh giác), BIẾT là Chánh Tri Kiến (chưa hoàn thiện) nên Có Thể Liễu Tri đối tượng. Do THẤY như vậy, BIẾT như vậy mà Không Dục Hỷ đối tượng, Khổ không khởi lên.

- Đối với bậc A La Hán và Như Lai: THẤY là Thắng tri đối tượng (Tỉnh giác), BIẾT là Chánh Tri Kiến, là Minh, Liễu Tri đối tượng. Do THẤY NHƯ VẬY, BIẾT NHƯ VẬY, mà MỌI LẬU HOẶC ĐƯỢC ĐOẠN TẬN, Dục Hỷ được đoạn tận, Khổ được đoạn tận.

Vì vậy PHÁP MÔN CĂN BẢN mà Phật dạy là tu tập để thay đổi THẤY và BIẾT, từ THẤY và BIẾT của Phàm phu gồm "TƯỞNG TRI VÀ KHÔNG LIỄU TRI" đối tượng, thành THẤY và BIẾT của bậc Thánh gồm "THẮNG TRI VÀ LIỄU TRI" đối tượng. Do thay đổi được THẤY và BIẾT từ Phàm sang Thánh mà Thái độ và Hành vi đối với đối tượng sẽ thay đổi, là hệ quả tất yếu của sự thay đổi THẤY và BIẾT, vì vậy mà KHÔNG CẦN TU TẬP THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI.

Để chuyển đổi THẤY và BIẾT từ Phàm sang Thánh phải tu tập CHỈ và QUÁN. CHỈ do Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định sẽ làm cho lộ trình tâm Dừng Lại THẤY, mà BIẾT không khởi lên, lúc đó sẽ chứng ngộ và an trú THẤY thuần tuý, Thấy chỉ là Thấy, Nghe chỉ là Nghe, Cảm Nhận chỉ là Cảm Nhận đối tượng, không thêm bớt (Thấy đối tượng như chúng đang là). Do tu CHỈ mà THẤY như vậy, thì THẤY đó gọi là Tỉnh giác hay Thắng tri đối tượng. Khi tu QUÁN sẽ có Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh Giác) - Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến và Chánh Tri Kiến là BIẾT với Trí Tuệ, là Minh, sẽ Liễu Tri đối tượng.

Sư Nguyên Tuệ

Address

199 Đường 767, ấp Sông Mây, Bắc Sơn
Trang Bom
76313

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Trung tâm thiền Gosinga Thiên Phước posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share