
25/04/2025
TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN LÂM SÀNG - ĐIỀU TRỊ CHỨNG ĐÁI DẦM Ở TRẺ EM (Nocturnal Enuresis)
_________________________
Triệu chứng đái dầm ở trẻ em (Nocturnal Enuresis) được định nghĩa là trẻ em lớn hơn 5 tuổi, mỗi tháng đái dầm 1 ít nhất 1 lần, ít nhất liên tục 3 tháng.
Đối với Tây Y thì họ chỉ tìm ra được nguyên nhân đái dầm ở trẻ sau khi phát sinh những bệnh lý khác được gọi là Đái Dầm Thứ Phát. Còn căn nguyên lý do đối với trẻ khỏe mạnh không có bệnh lý mà đái dầm hay còn gọi là Đái Dầm Nguyên Phát thì Tây Y chưa hiểu rõ ràng về cơ chế bệnh này.
Tuy nhiên Đông y với nghìn năm kinh nghiệm dựa trên học thuyết Âm Dương Ngũ Hành đã lý giải căn bệnh Đái Dầm Nguyên Phát vô cùng rõ ràng và thấu triệt. Hãy dành thời gian đọc hết bài phân tích dưới đây của Giáo sư Chu Diệu Đình( 周耀庭) để chúng ta có thêm kiến thức đối với những bệnh lý tưởng chừng đơn giản nhé.
_________________________
Giới thiệu sơ qua về Giáo sư Chu Diệu Đình: Ông sinh năm 1930.
- Ông từng là giáo sư của Khoa Y học cổ truyền Trung Quốc thuộc Đại học Y khoa Thủ đô
- Giám đốc Ủy ban học thuật của Khoa Y học cổ truyền Trung Quốc, giáo sư thỉnh giảng của Đại học Y học cổ truyền Bắc Kinh
- Giáo sư quốc gia về di sản học thuật y học cổ truyền Trung Quốc và viện sĩ của Viện Hàn lâm Y học cổ truyền Thế giới Hoa Kỳ.
- Hơn 50 năm kinh nghiệm lâm sàng và hơn 30 năm giảng dạy y học Trung Quốc. Ông có nền tảng lý thuyết vững chắc về cả Đông Y và phương Tây Y.
_________________________
Nguyên nhân: Hạ nguyên hư hàn, thận khí bất túc
Trong Tố Vấn – Nghịch Điều Luận có viết: “Thận giả thủy tàng, chủ tân dịch” (Thận là nơi chứa nước, chủ trị tân dịch). Thận là gốc tiên thiên, chủ thủy, có chức năng chủ trì và điều tiết quá trình chuyển hóa thủy dịch trong cơ thể. Thận khí có khả năng chưng hóa toàn bộ tân dịch trong cơ thể, phần trọc sẽ được đưa xuống bàng quang tạo thành nước tiểu, bàng quang làm nhiệm vụ tàng trữ và bài tiết nước tiểu. Việc bài tiết nước tiểu bình thường phụ thuộc vào tác dụng khí hóa của cả thận và bàng quang.
Sách Bút Hoa Y Kính có viết: “Việc tiểu tiện được thông suốt là do bàng quang chủ, nhưng thực chất là do thận khí làm chủ”.
Trong Cảnh Nhạc Toàn Thư – Thũng Trướng viết: “Cái thủy vi chí âm, cố kỳ bản tại thận” (Nước thuộc âm cực, nên gốc của nó ở thận).
Anh Đồng Loại Túy viết: “Trẻ nhỏ đái dầm là do bàng quang hư hàn không thể kiềm chế, nên nước tiểu tự bài xuất”.
Thận chủ thủy, thông xuống âm, tiểu tiện là phần dư của tân dịch. Tân dịch và trọc dịch nhờ vào thận khí mà qua tam tiêu dẫn xuống bàng quang, nếu thận khí đầy đủ thì có thể chủ khai hợp (mở đóng), thanh khí thăng, trọc khí giáng. Trẻ nhỏ có đặc điểm sinh lý là thận thường hư, thận khí bất túc, hạ nguyên hư hàn, không thể ôn dưỡng bàng quang, dẫn đến khí hóa bàng quang mất điều hòa, đóng mở không đúng chức năng, không thể điều tiết đường nước tiểu, dẫn đến hiện tượng đái dầm.
_________________________
Nguyên nhân: Tỳ phế khí hư, bàng quang thất ước
Phế chủ toàn thân chi khí, là nơi tụ hội của trăm mạch, có chức năng điều hòa thủy đạo và dẫn nước xuống bàng quang. Tỳ thuộc trung thổ, tính ưa khô ghét ẩm và có khả năng chế thủy. Chức năng tỳ phế bình thường mới có thể duy trì quá trình vận chuyển và bài tiết thủy dịch trong cơ thể. Trẻ nhỏ có đặc điểm sinh lý là tỳ thường bất túc, phế thường bất túc. Nếu phế khí hư nhược, chức năng trị tiết không thực hiện được, khí hư hạ hãm, không thể cố sáp, dẫn đến thất điều trong điều tiết nước, bàng quang không kiềm chế được, tân dịch không được giữ.
Như trong Tạp Bệnh Nguyên Lưu Hy Chúc – Di Niệu có viết: “Phế chủ khí hạ giáng sinh thủy, truyền xuống bàng quang, nếu phế hư thì không thể làm chủ khí hóa, do đó nước tiểu không thể giữ”.
Nếu tỳ khí hư yếu, quá trình vận hóa thủy dịch rối loạn, không thể tán tân lên phế, thì nước không được chế ước. Vì vậy, khi tỳ phế khí hư, thượng hư bất năng chế hạ, hạ hư bất năng thừa thượng, dẫn đến không có khả năng kiềm chế thủy đạo, nước tiểu tự bài ra, hoặc tiểu tiện khi đang ngủ. Trên lâm sàng phát hiện rằng, phần lớn trẻ mắc chứng này có các triệu chứng như: tiểu trong và dài, sợ lạnh, dễ mệt mỏi, ra mồ hôi nhiều, hay ngủ, đại tiện loãng mềm, ăn uống kém...
Phân tích biện chứng thường gặp các thể như thận khí bất túc, hạ nguyên hư hàn, tỳ phế khí hư, bàng quang thất ước.
_________________________
Nhìn nhận lại về nguyên nhân: Thấp nhiệt
Rất nhiều y gia đưa ra rằng, nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của chứng đái dầm còn bao gồm thấp nhiệt ở hạ tiêu, can đởm thấp nhiệt... Như Chu Đan Khê trong Đan Khê Tâm Pháp – Tiểu Tiện Bất Cấm đã nêu: “Tiểu tiện bất cấm giả, thuộc nhiệt thuộc hư”, Vương Luân trong Minh Y Tạp Trứ – Tiểu Tiện Bất Cấm luận rằng: “Tiểu tiện bất cấm hoặc tần số nhiều... thật không biết có loại thuộc nhiệt, vì hỏa tà của bàng quang vọng động, nước không được yên, nên không thể giữ mà tần tiện nhiều”.
Đối với quan điểm trên, Giáo sư Chu Diệu Đình giữ thái độ phản đối, nguyên nhân được tổng kết như sau:
- Trước hết, xét về tính chất bệnh, trẻ mắc chứng đái dầm thường có thể trạng gầy yếu, là thể chất dễ cảm nhiễm, tính chất bệnh thuộc hư chứng.
- Thứ hai, xét về biểu hiện lâm sàng, nếu thấp nhiệt hạ chú, uất kết tại bàng quang, khí hóa thất điều thì phải có triệu chứng niệu đạo nóng rát, nhưng bệnh này không có biểu hiện lâm sàng của nhiệt niệu hoặc đau khi tiểu.
- Thứ ba, xét về điều trị, thực chứng thường có chu kỳ điều trị ngắn, dễ chữa khỏi; trong khi hư chứng thì chu kỳ điều trị dài, bệnh tình dễ tái phát. Thực tiễn lâm sàng lâu dài chứng minh rằng, bệnh này rất khó đạt hiệu quả tức thì.
- Cuối cùng, xét về quy luật phát triển, bệnh này là bệnh có tính tự hạn chế, theo thời gian và tuổi tác tăng lên, các triệu chứng sẽ dần cải thiện. Điều này là do trẻ em có tạng phủ non yếu, hình khí chưa đầy đủ, tức “trĩ dương vị sung, trĩ âm vị trưởng”, theo sự phát triển, ba tạng phế – tỳ – thận dần được bổ sung đầy đủ, nên chứng đái dầm được chữa khỏi; trong khi những bệnh nguyên như thấp nhiệt hạ tiêu, can đởm thấp nhiệt thì không có mối liên hệ tất yếu với sự phát triển theo tuổi tác.
- Tổng hợp lại, Giáo sư Chu cho rằng, PMNE (tiểu dầm nguyên phát về đêm) thuộc hạ nguyên hư hàn, thận khí bất túc, tỳ phế khí hư, bàng quang thất ước, không tồn tại các nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh như thấp nhiệt hạ tiêu hay can đởm thấp nhiệt.
_________________________
Kinh nghiệm điều trị của Giáo sư Chu Diệu Đình
Dựa trên cơ chế bệnh sinh đã nêu trên, giáo sư Chu Diệu Đình bắt đầu từ ba tạng Phế, Tỳ, Thận, áp dụng các phương pháp ôn thận, ích khí, cố sáp, điều thần, khai phế, trị cả phần ngọn lẫn phần gốc, đạt được hiệu quả có thể kiểm chứng.
Các vị thuốc thường dùng gồm có: Phúc bồn tử, Thỏ ti tử, Sa uyển tử, Tang phiêu tiêu, Sơn thù nhục, Ích trí nhân, Kim anh tử, Khiếm thực, Liên tử, Liên tu, Thạch xương bồ, Viễn chí, Ma hoàng, Bạch quả. Khi vận dụng lâm sàng, tùy theo đặc điểm cụ thể của trẻ mà chọn vài vị thuốc ôn thận cho thích hợp, không cần dùng hết.
Trong đó, các vị như Phúc bồn tử, Thỏ ti tử, Sa uyển tử, Tang phiêu tiêu, Sơn thù nhục có thể bổ thận cố sáp.
-Phúc bồn tử vị ngọt, chua, tính hơi ôn, vào kinh Can và Thận, có thể cố thận sáp tinh, súc tiểu, vừa bổ ích Can Thận vừa thu liễm cố sáp. Sách Bản thảo diễn nghĩa chép rằng: “Ích thận tạng, súc tiểu tiện”.
- Thỏ ti tử vị tân, ngọt, tính bình, tân có thể nhuận táo, ngọt có thể bổ hư, có thể bổ dương ích âm, cố tinh súc tiểu.
- Sa uyển tử ngọt ôn, bổ thận, cố tinh súc tiểu, dùng điều trị thận hư di niệu, tiểu tiện nhiều; sách Nhật hoa tử chư gia bản thảo viết rằng: “Trị thủy tạng hàn, tiểu tiện nhiều”.
- Tang phiêu tiêu vị ngọt có thể bổ ích, vị mặn vào thận, tính thu liễm, có thể bổ thận trợ dương, cố tinh súc tiểu; Bản thảo phùng nguyên ghi chép: “Là thuốc của Can Thận Mệnh môn, chuyên về công năng thu sáp”.
- Trương Cảnh Nhạc nói: “Người giỏi bổ dương, ắt cầu dương trong âm”, do đó chọn Sơn thù nhục vị chua, tính hơi ôn để bổ thận cố sáp; Thang dịch bản thảo ghi rằng: “Chỉ tiểu tiện”, Dược tính luận viết: “Trị người già tiểu tiện không kiểm soát”.
Ích trí nhân, Kim anh tử, Khiếm thực, Liên tử, Liên tu đều có thể cố tinh súc tiểu.
- Ích trí nhân vị tân, tính ôn, quy kinh Tỳ, Thận, có thể ôn Tỳ, ôn Thận, cố tinh súc tiểu; Bản thảo chính nghĩa viết rằng: “Ôn bổ Tỳ Thận, nhưng chủ yếu là cố sáp”, Bản thảo thập di nói: “Trị di tinh, hư lậu, tiểu tiện rỉ ra... ban đêm tiểu nhiều”.
- Kim anh tử vị chua sáp, thu liễm, chuyên cố sáp, cố tinh súc tiểu; Bản thảo bị yếu chép: “Chua sáp, vào ba kinh Tỳ, Phế, Thận, cố tinh nạp khí, trị mộng di tinh, tiết tả đại tiện nhiều”.
- Khiếm thực vị ngọt sáp, thu liễm, giỏi bổ thận kiện tỳ, thu liễm cố sáp, cùng Kim anh tử phối hợp, hợp thành “Thủy lục nhị tiên đan” để bổ thận cố tinh. Liên tử cố liễm tinh khí, dưỡng tâm ích thận; Bản thảo cương mục viết: “Giao tâm thận, dày trường vị, cố tinh khí, cường gân cốt, bổ hư tổn”.
- Liên tu là nhụy của hoa sen, vị ngọt, tính bình, vào kinh Tâm, Thận, có thể thanh tâm cố thận, sáp tinh. Giáo sư Chu thường dùng Liên tử phối hợp với Liên tu để trị chứng di niệu, lấy công dụng kiện tỳ, cố thận, sáp tinh, điều thần.
Nếu trẻ ban đêm ngủ say khó đánh thức, giáo sư Chu thêm Thạch xương bồ, Viễn chí để thanh tâm khai khiếu, tỉnh thần.
Tham khảo kinh nghiệm đồng đạo, giáo sư Chu cũng phối hợp Ma hoàng và Bạch quả để khai thông khí phế.
- Ma hoàng vào kinh Phế và Bàng quang, chủ tuyên, có thể thông dương hóa khí, ôn ấm hạ nguyên, tuyên giáng khí phế, điều tiết thủy đạo, làm cho khí hóa bàng quang được khôi phục, khai hợp có độ, thì chứng di niệu tự khỏi.
- Bạch quả vị ngọt đắng, thu sáp, chủ yếu là sáp; Bản thảo cương mục nói: “Ăn chín thì ôn phế ích khí, định suyễn ho, súc tiểu tiện”. Ma hoàng và Bạch quả một khai một hợp, làm cho khí phế tuyên giáng có độ, có công năng như nhấc ấm rót nước, tuyên phế tỉnh não, chỉ di; đồng thời có hiệu quả trị dưới từ trên.
Tổng kết lại, giáo sư Chu trị PMNE (tiểu dầm nguyên phát vào ban đêm) lấy ôn thận cố sáp làm chính, phối hợp kiện tỳ, điều thần, khai phế, các vị thuốc kết hợp, làm cho Tỳ Thận được kiện toàn, thủy đạo được thông suốt, thì chứng di niệu tự nhiên chấm dứt.
_________________________
Chia sẻ với mọi người trường hợp của cậu bé 10 tuổi đêm nào cũng đái dầm trong ảnh, chỉ sau 5 thang thuốc, những tín hiệu đầu tiên của sự hồi phục đã hé lộ — bé ngủ sâu hơn và những cơn đái dầm bắt đầu thưa dần. Niềm vui xen lẫn hồi hộp hiện rõ trong từng ánh mắt người mẹ, từng nhịp thở người cha. Sau 5 thang, chúng mình điều chỉnh đơn thuốc, tiếp tục hành trình chữa lành với liệu trình còn lại, tuân thủ nguyên tắc không vượt quá 10 vị thuốc mỗi lần. Và rồi... khoảnh khắc ấy — 10 thang thuốc trôi qua cũng là lúc bé hoàn toàn không còn những buổi sáng tỉnh dậy trên chiếc ga giường ướt đẫm, không còn ánh mắt ngập ngừng xấu hổ. Thay vào đó là sự tự tin chạy nhảy, hồn nhiên như bao đứa trẻ khác. Cha mẹ bé từ những lo lắng âm thầm, từ những đêm dài thao thức, giờ đây vỡ òa trong niềm hạnh phúc khó tả, sự nhẹ nhõm như trút bỏ cả bầu trời gánh nặng.
_________________________
Tại Túy Y Đường, mỗi đơn thuốc là một quá trình chắt lọc công phu giữa học vấn, lương tâm và lòng từ bi. Chúng mình không chạy theo những đơn thuốc dài lê thê, không ngụp lặn trong sự cầu kỳ hình thức. Chăm chỉ tìm ra phương pháp rõ ràng, hệ thống lý luận hoàn chỉnh, kinh nghiệm của những Giáo sư đầu ngành về Y học cổ truyền Trung Quốc để giải quyết căn nguyên bệnh tật cho từng bệnh nhân.
Một ngày làm bác sĩ ở Túy Y Đường là một đời sống trọn trong lý tưởng y thuật chân chính: không ngừng học hỏi, không ngừng tôi luyện bản thân như rèn kiếm qua lửa đỏ, ép bản thân tôi luyện khắc khổ để đạt tới cảnh giới cao nhất để có thể dùng toàn bộ trí lực, tâm lực của mình chữa bệnh cho thiên hạ chứ không cho phép mình thỏa hiệp với sự dễ dãi.
_________________________
Túy Y Đường
Say Mê Y Thuật – Chân Tâm Độ Người