01/08/2021
GÓC NGHỊ LUẬN VĂN HỌC.
Con người trong văn học trung đại Việt Nam rất phong phú. Nó khác biệt với con người trong văn học dân gian. Mỗi thể loại có một cách quan niệm và biểu hiện con người riêng nhưng vẫn có cái chung. Quan niệm chung chi phối văn học trung đại Việt Nam là:
Thời trung đại, con người chủ yếu sống bằng nông nghiệp nên thường dựa vào tự nhiên, khai thác tự nhiên để sống. Do đó, con người trung đại tin ở sự thống nhất trong thế giới. Thiên nhiên là bạn tri âm tri kỷ của con người. Người phương Đông xưa cũng quan niệm: thiên nhiên có mối giao hòa, giao cảm với con người bởi con người là một "tiểu vũ trụ" có quan hệ tương thông tương cảm với "đại vũ trụ"- thi.ên nhiên ngoại giới (Thiên nhân tương cảm, thiên nhân hợp nhất). Con người là một yếu tố trong mô hình vũ trụ: Thiên - Địa - Nhân hợp thành "Tam Tài". Con người sống trong vòng "Thiên phú. địa tái" (Trời che, đất chở). Cho nên, quan niệm “Thiên – Địa – Nhân” hay “Thiên Nhân t.ương cảm” cổ xưa ấy đã chi phối nhiều đến sự biểu hiện trong tác phẩm nghệ thuật. Do đó thơ văn trung đại thường chỉ xuất hiện một con người đứng trước trời đất.
Thời trung đại, con người chủ yếu sốn.g bằng nông nghiệp nên thường dựa vào tự nhiên, khai thác tự nhiên để sống. Do đó, con người trung đại tin ở s.ự thống nhất trong thế giới. Thiên nhiên là bạn tri âm tri kỷ của con người. Người phương Đông xưa cũng quan niệm: thiên nhiên có mối giao hòa, giao c.ảm với con người bởi con người là một "tiểu vũ trụ" có quan hệ tương thông tương cảm với "đ.ại vũ trụ"- thiên nhiên ngoại giới (Thiên nhân tương cảm, thiên nhân hợp nhất). Con người là một yếu tố trong mô hình vũ trụ: Thiên - Địa - Nhân hợp thành "Tam Tài". Con người sống trong vòng "Thiên phú địa tái" (Trời che, đất chở). Cho nê.n, quan niệm “Thiên – Địa – Nhân” hay “Thiên Nhân tương cảm” cổ xưa ấy đã chi phối nhiều đến sự biểu hiện trong tác phẩm nghệ thuật. Do đó thơ văn trung đại thường chỉ xuất hiện một con người đứng trước. trời đất.
Chẳng hạn, thi đề quen thuộc của thơ trữ tình trung đại chính là con người một mình đối diện, đàm tâm với thiên nhiên vũ trụ. Người anh hùng được nhắc đến với tầm vóc s.ánh ngang vũ trụ:
“Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.”
(Phò vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời)
(Đăng Dung – Cảm Hoài)
Ở bài Tự tình nổi tiếng của nữa sĩ Hồ Xuân Hương, hình tượng con người vũ t.rụ nổi bật rõ: gian vũ trụ khoáng đạt, rộng lớn và hoành tráng, mà trong đó, con người dù nhỏ bé song vẫn cố gắng vươn lên ngang tầm và có khát vọng làm chủ trời đ..ất, vũ trụ, chinh phục thiên nhiên. Tác giả đã phóng lớn ngọn giáo của mình cho tương xứng với kích thước của đất nước, của vũ trụ:
“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”
(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân hùng dũng nuốt sao Ngưu)
Ở bài Tự tình nổi tiếng của nữa sĩ Hồ Xuân Hương, hình tượng con người vũ trụ nổi bật rõ:
"Trơ cái hồng nhan với nước non".
Con người được đặt giữa không gian mênh mông của vũ trụ nhưng không hòa nhập vào không gian bao la rộng lớn ấy mà cô độc, lẻ loi một mình. Nữ sĩ đưa từ “trơ” ra đầu câu như. để nhấn mạnh sự đối lập của một cá thể đơn lẻ với cả vũ trụ mênh mông, để gia tăng cảm giác cô đơn, .quạnh vắng trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Khi bất đắc chí, đau đáu vì cuộc duyên không .rọn, con người tìm về với thiên nhiên như trở về nguồn cội nhưng lại bắt gặp:
“Vầng trăng bóng xế kh.uyết chưa tròn”
Thiên nhiên và lòng người vốn tương ứng tương cảm và có sự đồng điệu. Thế nên con người đang đau đáu vì cuộc duyên không trọn vẹn thì vầng trăng kia cũng chỉ có thể là vầng trăng khuyết giữa trời đ.ang dần xế bóng.
Chính vì vậy, ở đây, con người không xuất hiện với tư cách cá nhân. Họ buồn không phải một cá nhân buồn, mà cả vũ trụ cũng buồn theo, đúng như Nguyễn Du đã từng nói:
“Cảnh nào cảnh c.hẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
(Nguyễn Du - Truyện Kiều – Câu 1243-1244)
Đó là “con người vũ trụ” sống trong quy tắc “hô, ứng”. Vui buồn của mỗi con người buộc cả vũ trụ chuyển động.
“Vật mình, vẫy gió, tuôn mưa,
Dầm dề g.iọt ngọc thẫn thờ hồn mai.”
(Nguyễn Du - Truyện Kiều – Câu 2795-2796)
Sự miêu tả gián tiếp trong thơ tr.ng đại chính là bị sự chi phối của quan niệm vũ trụ đó. Con người không được miêu tả như một hiện tượng xã hội mà được như là một bộ phận của thiên nhiên, của vũ trụ. Chẳng hạn như khi nói sự bình phục của Kiều, thì Nguyễn Du viết:
“ Vừa tuần nguyệt sán.g, gương trong”
(Nguyễn Du - Truyện Kiều – Câu 1191)
về tình yêu của từ Hải và Kiều, thì:
“ Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”
(Nguyễn Du - Truyện Kiều – Câu 2211,2212)
Ngoài .ra, do quan niệm vũ trụ trong văn học ta bắt nguồn từ rất xa xôi, gắn liền với những quan niệm thần bí, tướng số. Cho nên, đặc biệt đối với những nhân vật xuất chúng, tác giả http://xn--th-e0a0990a.ng/ miêu tả thành những con người d.ị tướng, phi thường, hun đúc một sức mạnh nào đó của vũ trụ. Đó là những con người “chịu mệnh trời”. Từ Hải chính là nhân vật được Nguyễn Du xây dựng dựa trên quan niệm này:
“Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tất. rộng thân mười thước cao”.
(Câu 2168-2169)
Đây là con người mà chí khí và tài năng được đo bằng chiều kích của vũ trụ. Bởi thế, nói đến Từ Hải, người đọc như thấy hiện rõ trước mắt mình một hình ảnh cao rộng của .trời đất và vũ trụ.
Đây là con người mà chí khí và tài năng được đo bằng chiều kích của vũ trụ. Bởi thế, nói đến Từ Hải, người đọc như thấy hiện rõ trước m.ắt mình một hình ảnh cao rộng của .trời đất và vũ trụ.ụ, mang dấu ấn vũ trụ, thiên nhiên qua đất trời, mây nước, cỏ cây, muông… với cái đạo vững bền, sâu thẳm của ..nó. Đây là nét khu biệt không thể lẫn so với các kiểu con người trong các thời kì sau của văn học.
3.2. Con người đạo đức
Toàn b.ộ xã hội trung đại được nhìn nhận trong một hệ thống tôn giáo đạo đức. Cho nên, con người luôn được nhìn nhận ở phương diện đạo đức luân lí. Vì thế, văn chương xưa chia. xã hội thành hai tuyến: thiện – ác, tốt – xấu với mục đích, chức năng nổi bật là giáo huấn:
“Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.”
(Nguyễn Đình Chiểu – Lục Vân Tiên)
Chính vì. vậy, con người sống theo luân lí đạo đức, theo lí trí thì được coi là chân chính; còn những người sống theo xúc cảm, theo những luân lí trần thế, nhân bản thì bị coi thường, chê trách.
Bên cạnh đó, con người trong văn học trun.g đại còn là con người của tấm lòng, co.n người của chí khí và việc tỏ lòng, tỏ chí khí là nét đặc trưng của họ. Bởi vậy, cái có giá trị nhất của .con người thuộc về tấm lòng, muốn đánh giá về một con người là xem tấm lòng của h.ọ như thế nào. Trong Truyện Kiều, để “tỏ lòng” hiếu thảo, Kiều đã bán mình chuộc cha. Đó là một hành động phi thường, trên thực tế nàng có thể vay tiền chuộc cha, nhưng như thế thì quá bình thường. Tương tự, Kiều Nguyệt Nga. cũng thể hiện tấm lòng trinh liệt của mình khi ôm bức chân dung Vân Tiên nhảy xuống sông tự vẫn.
Như vậy, sự “tỏ lòng” là rất quan trọng trong văn học trung đại. Chính nó đã làm cho hệ thống sự kiện trở nên gay gắt, căng thẳng hơn chứ kh.ông hề xây dựng được cốt truyện đơn thuần trên những việc bình thường hàng ngày.
Phải lo hiếu .kính đêm ngày khăng khăng.”ế kỷ thứ XV, là một nhà quân sự thiên tài, nhà chính trị lỗi lạc, một nhà .văn hóa vĩ đại của dân tộc. Trong tác phẩm Gia huấn ca, ông đã đề cao đạo đức luân lí trong mối quan hệ giữa cá nhân, gia đình và xã hội. Đạo hiếu được nhấn mạn..h rất rõ:
“Dù nội ngoại bên nào cũng vậy
Đừng tranh giành bên ấy, bên này
Cù Lao đội đức cao dày,
Trong truy.ện Nôm, các nhân vật luôn luôn bày tỏ tấm lòng rất rõ rệt. Các nhân vật tự trừu tượng hóa, đem tấm lòng ra đối diện với nhau. Trong Truyền kỳ mạn lục hình tượng con người đạo đức cũng được xuất hiện, có .thể kể đến nhân Tử Văn trong Chu.yện chức phán sự đền Tản Viên. Với hình ảnh người trí thức Tử Văn có tính tình cương trực, dũng cảm “thấy sự gian tà thì không chị.u được” Nguyễn Dữ hướng đến đề cao con người của công lý, chính nghĩa, đồng thời phê phán và trừng trị những kẻ phi đạo đức, xảo quyệt, làm hại nhân dân.
Còn phận làm con đối với cha mẹ thì:
“Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc
Xem cháo cơm thay thế mọi bề
Ra vào thăm hỏi từng khi
Trong truyện Nôm, các nhân vật luôn luôn bày tỏ tấm lòng rất rõ rệt. Các nhân vật tự trừu tượng hóa, đem tấm lòng ra đối diện với nhau. Trong Truyền kỳ mạn .lục hình tượng c.on người đạo đức cũng được xuất hiện, có thể kể đến nhân Tử Văn trong Chuyện chức phán sự đ.ền Tản Viên. Với hình ảnh ngư.ời trí thức Tử Văn có tính tình cương trực, dũng cảm “thấy sự gian tà thì không chịu được” Nguyễn Dữ hướng đến đề cao con người của công lý, chính nghĩa, đồng thời phê phán và trừng trị những kẻ phi đạo đức, xảo quyệt, làm hại nhân dân.
Trong tru.yện Nôm, các nhân vật luôn luôn bày tỏ tấm lòng rất rõ rệt. Các nhân vật tự trừu tượng hóa, đem tấm lòng ra đối diện với nhau. Trong Truyền kỳ mạn lục hình tượng con người đạo đức cũng được xuất hiện, có thể kể đến nhân Tử Văn t.rong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Với hình ảnh người trí thức Tử Văn có tính tình cương trực, dũng cảm “thấy sự gian tà thì không chịu được” Nguyễn Dữ hướng đến đề cao con người của công. lý, chính nghĩa, đồng thời phê phán và trừng trị những kẻ phi đạo đức, xảo quyệt, làm hại nhân dân.
Tóm lại, cùng với con người vũ trụ, hình tượng con người đạo đức cũng xuất hiện. nhiều trong các tác phẩm văn học trung đại. Qua đó góp phần làm phong phú thêm hệ thống nhân vật của một thời kỳ văn học.
3.3. Con người đấng bậc
Cùng với mô hình con người vũ trụ và con người đạo đức là thái độ tôn xưng với những con người tài tình, phân biệt với những người khác. Trong văn học trung đại còn tồn tại một quan niệm khác về con người đ.ó là quan niệm về con người đấng bậc. Điề.u này được thể hiện rõ nét nhất là trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Cách miêu tả của Nguyễn Du chịu sự chi phối của quan niệm đấng bậc về con người. Trong quan niệm của ông, những con người như Kim Trọng, Thúy Kiều, Từ Hải là những “đấng”, nh.ững “bậc” đáng kính trọng. Họ là “đấng tài hoa” (Đạm Tiên); “bậc tài danh” (Kim Trọng); “bậ.c bố kinh” (Thúy Kiều); “đấng anh hùng” (Từ Hải)... Đối với những nhân vật ấy, tác giả dành cho những lời trang trọng, tượng trưng. Còn bọn Tú Bà, Mã Giám Sinh là. bọn vô loài, bọn chúng không có mẫu mực gì cả, mỗi đứa một vẻ, đều là “tuồng” vô lại. Bọn chúng được miêu tả theo đặc tính thực tế về nghề nghiệp cá nhân theo kiểu “Thoắt trông nhờn nhợt màu da”, hoặc: “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”… rất hiện thực.
Như vậy, con đường đi đến chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du rất độc đáo, theo kiểu phương Đông. Cách “quan niệm về con người” này chi phối một giai đoạn rất dài của Văn học Việt Nam gần mười thế kỷ.
3.4. Co.n người có ý thức cá nhân
Con người cá nhân trong văn học chính là sự phản ánh cái tôi, là sự giãi bày, diễn tả thế giới tư tưởng, tình cảm riêng tư của tác giả. Nói cách khác, con người cá nhân trong văn học chính là sự tự khắc họa tâm tư, tình cảm, ý chí của tác giả được thể hiện thông qua những tác phẩm mà họ sáng tác. Tùy theo từng giai đoạn, thời kỳ văn học, mà con người cá nhân có những đặc .điểm khác nhau.
Riêng đối với văn học trung đại con người cá nhân cũng được thể hiện ở mức đ.ộ đậm nhạt và qua nhiều bình diện khác nhau. Cụ thể, ý thức về con người cá nhân trong văn học trung đại Việt Nam trải qua hai giai đoạn với những hình thái khác nhau. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XVIII về cơ bản con người cá nhân được “khẳng định trên bình diện tinh thần, như một thực thể tinh thần, siêu nghiệm dưới các hình thức tu dưỡng, lựa chọn xuất xử, hoàn thiện nhân cách., tự hạn chế nhu cầu vật chất, tự đối lập với thói tục. Con người cá nhân tự khẳng định mình bằng cách gắn mình với đạo, với tự nhiên, với nghĩa vụ trong sự nghiệp chung của của cộng đồng. Yếu tố quyền lợi cá nhân chưa được chú ý. [3;194]. Còn từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX, “con người trong văn học đã kêu to lên nhu cầu về quyền sống cá nhân, quyền hưởng hạnh phúc cá nhân như một quyền tự nhiên” [3;194].
Qua quá trình khảo sát ta có thể khẳng định rằng, con người cá nhân trong vă.n học trung đại Việt Nam có một quá trình tự ý thức chậm chạp, lâu dài nhưng mạnh mẽ. Tuy qua từng thời kì lịch sử có chịu ảnh hưởng của ý thức hệ thống trị đương thời nhưng không bao giờ đóng khung trong ý thức hệ đó, mà phản ánh quá trình vận động, giải phóng cá tính của con người trong thực tế đời http://xn--sng-9lz.am/ chích quái và Truyền kỳ mạn lục); Con người cá nhân với niềm lo sợ tuổi trẻ chóng tàn (Chinh phụ ngâm), Con người cá nhân công danh hưởng lạc ngoài khuôn khổ (thơ văn Nguyễ..n Công Trứ, Cao Bá Quát); Con người cá nhân giải thoát bằng hưởng lạc (thơ ca trù cuối thế kỉ XIX), Con người cá nhân trống rỗng, mất hết ý nghĩa (thơ Nguyễn Khuyến,…
Qua quá trình khảo sát ta có thể khẳng định rằng, con người cá nhân trong văn học trung đại Việt Nam có một quá trình tự ý thức chậm chạp, lâu dài nhưng mạnh mẽ. Tuy qua từng thời kì lịch sử có chịu ảnh hưởng của ý thức hệ thống trị đương thời nh.ưng không bao giờ đóng khung trong ý thức hệ đó, mà phản ánh quá trình vận động, giải phóng cá tính của con người trong thực tế đời sống.
KẾT LUẬN...
Có ý kiến cho rằng, mọi sự thay đổi trong văn học đều bắt nguồn từ sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người. Do vậy, đi sâu khám phá .quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học trung đại Việt Nam là bước đi ngắn nhất để chúng ta đến gần với cái bản chất nội tại của tác phẩm, nắm được sự thay đổi, cách tân và vận động của cả một giai đoạn, một thời kì văn học trung đại, đồng thời nêu bật được sức hấp dẫn của thời .kì văn học này cũng như khẳng định những giá trị không lỗi thời của nó về sau.