27/06/2023
Ông Hoàng Bảy Bảo Hà
===
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam thì Ông Hoàng Bảy chính là người thuộc hàng vị thứ 7 trong Thập nhị Quan Hoàng thuộc hệ thống Thần linh Tứ Phủ.
Đền thờ Ông Hoàng Bảy xây dựng ở dưới chân núi Cấm, cạnh dòng sông Hồng, thuộc xã Bảo Hà, huyện Yên Bảo, tỉnh Lào Cai và cách trung tâm Thành phố Lào Cai về phía Nam khoảng 60 km. Đền thờ Ông Hoàng Bảy được công nhận là di tích lịch sử quốc gia từ năm 1977. Cho nên ông Hoàng Bảy còn có tên là Ông Hoàng Bảy Bảo Hà.
===
SỰ TÍCH
Tương truyền Ông là con của Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình, vị vua đứng đầu ở Thuỷ Phủ. Ông Hoàng Bảy theo lệnh của vua cha đã giáng thế trở thành người con trai thứ bảy của họ Nguyễn. Vào cuối triều Lê, nước ta bị giặc phương Bắc xâm lược ở vùng Quy Hóa (nay là tỉnh Yên Bái và Lào Cai). Đặc biệt là hai Châu: Châu Văn Bàn, Châu Thuỷ Vĩ bị giặc quấy nhiễu vô cùng, đời sống nhân dân khổ cực, nhân dân mất nhà mất đất lang bạt khắp nơi.
Trước tình hình nguy cấp, triều đình cũng không thể ngồi yên mà bỏ mặc nên liền hạ lệnh cử vị tướng họ Nguyễn thứ bảy lên vùng Quy Hóa để trấn thủ. Với chí lớn và tấm lòng thương dân vô hạn, ông Hoàng Bảy cũng không ngồi yên mà đã đem quân đuổi đánh giặc dọc theo bờ sông Hồng. Chiến tích đầu tiên là giành được Khảu Bàn (ngày nay là Bảo Hà) và xây dựng căn cứ quân sự lớn ở vùng đất này.
Sau thành công ban đầu, ông kêu gọi các tù trưởng cùng chiêu mộ nhóm binh lính xuất thân là người dân địa phương. Toàn đội ngày đêm nỗ lực rèn binh múa kiếm để tìm thời cơ tốt tiến đánh vùng Lào Cai.
Đúng như kế hoạch lúc ban đầu, đội quân mà ông thống lĩnh đã giải phóng thành công Lào Cai và các châu của vùng Quy Hoá. Được lòng tin của nhân dân, ông Hoàng Bảy lại ra sức tập hợp dân binh, ông chiêu dụ nhiều anh hùng ở địa phương và các dân tộc ít người như Thổ, Dao, Nùng về để khai khẩn, lập điền và củng cố căn cứ, thành trì thêm vững mạnh.
Quân giặc phương Bắc bị giành lại Lào Cai nên rất bất mãn, chúng thường xuyên cho quân đi sâu vào đánh chiếm các khu vực ở biên giới. Với tài năng thao lược tuyệt vời của Ông Hoàng Bảy đã bảo vệ được vùng biên cương bờ cõi nước nhà.
Tuy nhiên, trong một lần tướng giặc Tả Tủ Vàng dồn lực tập trung xâm lược nước ta thêm một lần nữa, vì sự chênh lệch lực lượng đã khiến viên tướng họ Nguyễn hi sinh.
Sau đó, thi thể ông trôi theo con suối về đến vùng đất Bảo Hà thì dạt vào bờ, được người dân đưa thi thể ông lên chôn trên sườn đồi núi Cấm. Người dân quanh vùng đều thương tiếc vô cùng với sự hy sinh của người tướng sĩ có tài và thương dân.
Sau này, để tưởng nhớ công của ông triều Nguyễn sau này đã truy phong cho ông danh hiệu là “Trấn an hiển quốc” và sắc phong “Thần Vệ Quốc”.
===
Ông Hoàng Bảy Bảo Hà là người rất dễ gần và dễ đồng điệu. Đó là một lý do mà đền của ông lúc nào cũng đông.
Năng lượng của ông giữ là Phát Tán (dạng khí thuỷ đa phương ngang dọc và chéo)
- phát tán kiểu tài hoa vào nghệ thuật, vào sáng tạo, vào sáng tác
- phát tán kiểu tài hoa vào thưởng thức, vào ăn chơi
- phát tán kiểu đào hoa, tạo sự hấp dẫn, trong các quan hệ trai gái
- phát tán kiểu cuốn hút và dẫn dắt, nhưng vẫn thoải mái, tự do trong các quan hệ xã hội đa sắc tộc, đa nghề nghiệp, đa tuổi tác ...
- phát tán kiểu tài lộc vào cả việc làm ăn và việc ăn chơi, kiểu vừa làm vừa chơi, vừa ăn vừa chơi
- phát tán kiểu trao đổi thương mai hàng hoá và buôn bán hàng hoá đường dài
- phát tán kiểu môi giới
- phát tàn tài lộc vào việc vừa nghiên cứu vừa thưởng thức
- phát tán thông tin kiểu vừa cảm nhận, vừa dự đoán, dự báo và định hướng
- phát tán thông tin kiểu bói toán, sấm, đồng dao, vè hay các hình thức truyền miệng không chính thống khác
- phát tán kiểu cát cứ
- phát tán dạng phát minh và kỹ thuật huyền thuật, nghệ thuật và nghi lễ
Những việc sau không hợp hoặc kỵ với ông
- Sản xuất tập trung, quy mô lớn
- Xây dựng cơ bản, xây dựng lớn
- Thương mại dạng đầu cơ, tích luỹ và tích trữ
- Nghiên cứu chính thống
- Địa vị tối cao
- Quyền lực thống nhất
- Quản trị tập trung
- Chiến tranh tổng lực
- Bánh trướng
- Đồng hoá
Những năng lượng dạng này gặp năng lương của ông Hoàng Bảy Bảo Hà thì sẽ bị quy hoá chuyển thành dạng tiêu tán, tiêu vong.
Màu sắc gắn với ông là màu tím hay màu lam. Tím là màu của huyền thuật, của huyền ảo, của bí mật gắn với chữ Cấm, ngọn núi mà ông đứng. Ông kỵ với màu Vàng, màu Hoàng. Tướng giặc Trung Quốc giết ông tên là Tả Tủ Vàng. Hoàng là màu của Trung Quốc nói chung, của phong kiến Trung Quốc nói riêng và rất nhiều các đặc trưng kỵ dơ kể trên là của Trung Quốc. Đó là lý do ông là anh hùng của chiến tranh vệ quốc của người Việt, và Nguyễn sau này đã truy phong cho ông danh hiệu là “Trấn an hiển quốc” và sắc phong “Thần Vệ Quốc”.
Sự tích ông Hoàng Bảy xuất hiện trong thời kỳ Hậu Lê. Thời Hậu Lê, vì năng lượng phát tán rất mạnh, nên có sự tranh giành quyền lực giữa rất nhiều thế lực như vua Lê, nhà Mạc, chúa Trinh, chúa Nguyễn, Tây Sơn, ngoài ra còn có những thế lực như Quận He, Quận Hẻo ...
Tích không nói rõ ông đánh giăc như thế nào mà được phong là "Thần Vệ Quốc", "Trần An HIển Quốc" mà chỉ nói ông đóng quân ở vùng Quy Hoá (nay là Lào Cai, Yên Bái) và ông hy sinh khi đánh nhau với tướng giặc Tả Tủ Vàng. Nhưng năng lương của ông kỵ với năng lượng của quân giặc phương Bắc nên khi chúng tập trung đánh ông thì năng lượng của chúng sẽ bị quy lại và chuyển hoá, rồi trở thành năng lượng phát tán của ta và với chúng là năng lượng tiêu tán. Cho nên ta không cần đánh thắng mà giặc cuối cùng vẫn phải rút lui.
Có một điều không mấy người biết là ông Hoàng Bảy xem được tài vận rất giỏi và đó cũng là cách ông đánh giặc - đánh bằng mưu kế, đánh bằng năng lượng, đánh như chơi, vừa đánh giặc với người dân và vừa vui sống cùng người đân, không đánh bằng lực, bằng sức.
Hai nhân vât cùng thời mà "có căn đồng" và sinh cùng thời "phát tán" và mang cùng năng lượng "phát tán" với ông Hoàng Bảy Bảo Hà là
- Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm (13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585) nhà tiên tri, nhà huyền môn nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam
- Vua Lê Hiển Tông (20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng cũng như là thứ 26 của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông làm vua được 47 năm, thọ 70 tuổi, là vị vua ở ngôi lâu nhất và là vua thọ nhất của nhà Hậu Lê. Dù vậy, đời Hiển Tông chỉ đặt một niên hiệu là Cảnh Hưng. Vua Lê Hiển Tông có 53 người con, trong đó có 30 hoàng tử, 23 hoàng nữ, trong đó Lê Ngọc Hân là hoàng hâu của hoàng đế Nguyễn Huệ và Lê Ngọc Bình Hoàng hậu của Cảnh Thịnh đế nhà Tây Sơn, sau đó là Đệ tam phi của vua Gia Long nhà Nguyễn. Một số nhà sử học cho rằng ông nhu nhược mà may măn, nhưng không có vua nào may mắn và nhu nhược mà làm được nhưng việc ông đã làm.
Vệ quốc kiểu ông Hoàng Bảy Bảo Hà không có nghĩa là đem quân tổng lực đánh giặc tơi bời. Làm vua giỏi như Lê Hiển Tông cũng không có nghĩa là hoành tráng thể hiện quyền lực và tài năng. Tài năng huyền tuhaatj như Nguyễn Bình Khiêm cũng không phải là thi đỗ tiến sỹ rồi làm quan đầu triều.
Tương tự như quân giặc, một số người bị kỵ dơ năng lượng hoặc làm những việc không phù hợp khi gặp ông thì cũng sẽ bị tiêu tán tài lộc, tiêu hao tài sản, tiêu tan sức khoẻ, mà ví dụ chính là việc hút chích ma tuý và mê tín di đoan, cầu cúng xin xỏ khắp nơi khắp chốn đến khuynh gia bại sản. Đây là vân hành của nghiêp quả, chứ cá nhân ông không can thiệp vào việc này.
Ông Hoàng Bảo Hà không trợ người nay hay phạt người kia, ông hoàn toàn không liên quan gì đến ma tuý, hay buôn lậu, ông chỉ như ông chính là và nghiêp quả mà chúng ta gặp khi đi vào đạo Mẫu và khi đến với ông Hoàng Bảo Hà cũng là nghiêp quả mà chúng ta tự tạo nên cho chúng ta.
Ông Hoàng Bảy Bảo Hà là một nhân vật HIỆN mà ẨN, DỄ mà KHÓ, GẦN mà XA, THỰC mà HUYỀN ẢO. Nó như núi Cấm mà ông đứng, núi sừng sừng ở bên sông Hồng, người người đi qua mà không ai hiểu, nhưng danh của ông vang khắp nước Nam.