BS PHẠM MINH TRIẾT

BS PHẠM MINH TRIẾT Pursuit of Happiness and Excellence Bs Phạm Minh Triết là Trưởng Khoa Tâm Lý – Bệnh viện Nhi Đồng 1 Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 – 2018.

Mục tiêu nghề nghiệp là hướng đến cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tinh thần toàn diện và phù hợp cho trẻ em Việt Nam dựa trên những bằng chứng khoa học. Bs Triết tốt nghiệp chương trình Bác sĩ Y Khoa tại Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch năm 1997. Năm 2010, Bs Minh Triết học xong chương trình Thạc sỹ Y tế Công (Master of Public Health) tại Viện Nhiệt Đới Hoàng Gia Amsterdam tại Hà Lan (Royal Tropical Institute – Amsterdam). Năm 2014, Bs Minh Triết hoàn thành chương trình Thạc sỹ Tâm Lý Lâm Sàng do Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch kết hợp với Trường Tâm Lý Thực Hành – Pháp (Ecole de Psychologues Praticiens). Tháng 7/2024, Bs Phạm Minh Triết tốt nghiệp chương trình Tiến Sỹ Tâm Lý tại Trường Nghiên cứu Tâm lý thuộc Đại Học Quốc Gia Australia (Research School of Psychology – The Australian National University). Một số thông tin liên quan:

https://vnexpress.net/tac-gia/pham-minh-triet-1208.html

https://nld.com.vn/suc-khoe/vi-sao-tre-so-di-hoc-20170718210059553.htm

https://nld.com.vn/suc-khoe/ca-biet-khong-phai-la-hu-hong-20170702213100495.htm

https://nld.com.vn/suc-khoe/tre-hieu-dong-hay-tang-dong-20171125212301614.htm

https://nld.com.vn/suc-khoe/giai-ma-hien-tuong-tre-hoc-kho-2015122421000774.htm

https://nld.com.vn/suc-khoe/nghien-an-toc-la-roi-loan-tam-than-201703142217362.htm

https://tuoitre.vn/con-bi-stress-cha-me-nao-co-hay-1106944.htm

https://tuoitre.vn/may-tinh-bang-thay-sgk-chua-luong-het-tieu-cuc-636973.htm

https://congnghe.tuoitre.vn/bao-mau-cong-nghe-so-564447.htm

https://thanhnien.vn/tre-bi-xam-hai-tinh-duc-chiu-am-anh-tam-ly-nang-ne-lau-dai-post838985.html

https://thanhnien.vn/bac-si-bv-nhi-dong-1-noi-gi-ve-mot-truong-hop-do-mo-hoi-mau-post784724.html

https://thanhnien.vn/giup-tre-bi-bao-hanh-vuot-noi-dau-ky-1-nhung-am-anh-con-mai-post386344.html

https://thanhnien.vn/cha-me-phat-hoang-thay-con-thu-dam-moi-biet-con-som-day-thi-post580782.html..

Ở Việt Nam làm gì không biết, cứ về lại Úc là vợ bắt làm vườn 😞. To be continue …
23/11/2025

Ở Việt Nam làm gì không biết, cứ về lại Úc là vợ bắt làm vườn 😞. To be continue …

22/11/2025

Hoa vợ trồng

,

Học lâm sàng đến tiến sĩ còn thấy mình chưa đủ giỏi, học online không thực hành thì biết làm gì khi gặp bệnh nhân?
21/11/2025

Học lâm sàng đến tiến sĩ còn thấy mình chưa đủ giỏi, học online không thực hành thì biết làm gì khi gặp bệnh nhân?

Đã về đến nhà … nằm phè phỡn  ,
19/11/2025

Đã về đến nhà … nằm phè phỡn

,

MỘT LẦN SUÝT KHÓC (Bài viết trong lúc chờ chuyến bay đêm về lại Úc) Một ca mới bước vào cuối một ngày dài: một bé gái vừ...
18/11/2025

MỘT LẦN SUÝT KHÓC

(Bài viết trong lúc chờ chuyến bay đêm về lại Úc)

Một ca mới bước vào cuối một ngày dài: một bé gái vừa tròn ba tuổi được đưa đến khám vì tăng động. Ở nhà, con khó ngồi yên; ở trường, các cô giáo cũng thường xuyên than phiền. Trong phòng khám, con chạy ào đến thùng đồ chơi, lục tung từng món, nói liên tục, và nhiều lần chen ngang vào câu chuyện giữa mẹ bé và tôi. Tất cả đều giống như một trường hợp “tăng động”.

Con giao tiếp tự nhiên, tương tác linh hoạt, ánh mắt lanh lợi và hiểu lời, nên tôi có thể nhanh chóng loại trừ rối loạn phổ tự kỷ. Chẩn đoán “theo dõi tăng động giảm chú ý” có thể tạm dùng, nhưng với một đứa trẻ ba tuổi, mọi nhận định đều cần thận trọng.

Người mẹ đưa con đến khám cũng dắt theo chị gái. Bé chị trái ngược hoàn toàn: hiền, trầm, ít nói. Khi hỏi về lịch sinh hoạt hằng ngày, mẹ kể chị đi làm từ sáng đến tám giờ tối. Về đến nhà, chị dạy kèm bé lớn đến chín giờ. Chỉ một tiếng cuối ngày mới dành cho hai chị em. Ba có phụ chăm nhưng thường ít tham gia việc dạy con, nên bé nhỏ phần lớn tự chơi hoặc xem tivi. Ngay cả buổi khám này, mẹ cũng phải mang cả hai chị em theo.

Khi tôi hỏi về việc tạo nề nếp và ranh giới, người mẹ khựng lại. Một thoáng bối rối hiện trên gương mặt chị — như thể câu hỏi ấy chạm vào điều chị đã biết nhưng chưa từng có cơ hội làm được.

Những mảnh ghép rời rạc ấy khiến tôi có một giả thuyết: có thể con không hiếu động vì rối loạn, mà vì con nhận được quá ít sự chú ý và thiếu sự dẫn dắt nhất quán. Khi con ngoan, con ít được chú ý hơn so với khi con có những hành vi “tăng động”. Một đứa trẻ ba tuổi, khi không có ai hướng dẫn đúng lúc, rất dễ bộc lộ nhu cầu của mình bằng cách chen ngang, chạy nhảy, hay gây ồn để được chú ý.

Tôi hướng dẫn mẹ về “giờ chơi đặc biệt”: mỗi ngày một khoảng thời gian nhỏ nhưng đều đặn, mẹ dành trọn cho cả hai chị em. Không dạy dỗ, không kiểm tra, không vội đánh giá. Chỉ cần có mặt, nhìn con, theo con. Trước khi nghĩ đến bất kỳ chẩn đoán nào, trẻ cần cảm nhận rõ ràng rằng cha mẹ đang ở cạnh mình.

Trong lúc tôi đang trao đổi với mẹ, con lại chen ngang. Tôi vừa thị phạm cho người mẹ học, vừa thử giả thuyết của mình: áp dụng quy trình yêu cầu – cảnh báo – phạt đứng một góc. Hai lần liên tiếp con bị phạt cách nhau năm phút. Và cả hai lần, gương mặt con khiến tôi chùng lòng: đôi môi mếu máo, đôi mắt rưng rưng nước. Con nhìn tôi đầy ngạc nhiên, như không hiểu vì sao mình bị tách khỏi mẹ — một hình phạt dành cho hành vi vốn xuất phát từ nhu cầu được chú ý.

Sau hai lần phạt, con ngồi chơi với chị, bình tĩnh hơn, bớt lăng xăng hơn. Lần thứ ba, khi con muốn tiến lại gần mẹ, con dừng lại, nhìn tôi, đôi mắt còn long lanh. Con đứng im như chờ sự cho phép. Tôi gật đầu và đẩy nhẹ con lại gần người mẹ: “Con lại mẹ đi.” Con bước đến, ôm mẹ thật chặt, nở một nụ cười hạnh phúc.

Cuối buổi, hai chị em lúi húi nhặt từng món đồ, sắp lại vào thùng. Khi con bỏ món cuối cùng vào, tôi đã chờ sẵn bên cạnh: “Cho bác ôm con một cái nhe?” Con nhìn tôi – đôi mắt vẫn còn giữ chút dấu vết của nước mắt – rồi bất ngờ nở một nụ cười sáng bừng. Một nụ cười hồn nhiên, trong trẻo, như thể tất cả những phút trước đó chưa từng xảy ra. Tôi ôm con, suýt khóc. Một cái ôm vừa là lời khen, vừa là một lời xin lỗi thầm thì: xin lỗi vì đã phải phạt con vì điều mà mọi đứa trẻ đều đương nhiên cần – được chú ý, được yêu thương, được dẫn dắt.

Tôi vẫn nghĩ con cần nhiều sự quan tâm hơn, nhiều sự hiện diện hơn, và một chút kỷ luật nhất quán từ người mẹ. Tôi chưa loại trừ tình trạng Tăng động – y học không cho phép tôi chủ quan – nhưng tôi biết dù có hay không, mọi thứ vẫn phải bắt đầu từ sự có mặt của cha mẹ. Trẻ con bộc lộ bản chất rõ ràng nhất khi có người lớn đồng hành đúng cách. Khi cha mẹ dành một khoảng thời gian cố định để chơi và dẫn dắt, nhiều hành vi tưởng như “triệu chứng” sẽ trở về đúng bản chất thật của chúng: chỉ là nhu cầu được quan tâm và được lắng nghe.

Hai mẹ con bước ra cửa. Con ngoái lại nhìn tôi, nụ cười rạng rỡ như một tia nắng cuối ngày. Một nụ cười nhỏ thôi, nhưng đủ để làm nhẹ đi tất cả những mệt mỏi còn lại.

Và tôi nhận ra rằng: đôi khi, điều một đứa trẻ cần không phải là một chẩn đoán thật sớm, mà là một khoảng thời gian nhỏ mỗi ngày – nơi con biết rằng có người đang dành trọn sự chú ý cho mình.



Bs Phạm Minh Triết

Đang chờ lên chiếc này. Đợt này về bị dí quá. Ngày cuối vẫn phải làm đến hết buổi sáng. Mất cả buổi trưa để đóng hành lý...
18/11/2025

Đang chờ lên chiếc này.

Đợt này về bị dí quá. Ngày cuối vẫn phải làm đến hết buổi sáng. Mất cả buổi trưa để đóng hành lý, toàn đồ của vợ con. Vậy mà vẫn không chở hết về Úc được 😀 . Chỉ kịp ăn vội buổi chiều với gia đình em gái rồi ra sân bay.

Tạm biệt Việt Nam, hẹn gặp lại vào tháng tới.

Ngày mốt chắc được ngủ nướng rồi.

Một trong những hệ quả của việc ở lại làm việc thêm 2 tuần.Bị viêm họng, tằng hắng thường xuyên. Đến nổi mấy em làm chun...
18/11/2025

Một trong những hệ quả của việc ở lại làm việc thêm 2 tuần.

Bị viêm họng, tằng hắng thường xuyên. Đến nổi mấy em làm chung nói, nghe tiếng tằng hắng là biết Bs Triết hôm nay có đi làm, không cần hỏi 😞

,

BÚN MÌ KHÔMón này tôi được ăn lần đầu do Ba dắt đi ăn sáng, quán Thanh Xuân ở góc đường Ba Tháng Hai và Minh Phụng. Ông ...
17/11/2025

BÚN MÌ KHÔ

Món này tôi được ăn lần đầu do Ba dắt đi ăn sáng, quán Thanh Xuân ở góc đường Ba Tháng Hai và Minh Phụng. Ông chủ người Hoa, sau này là con ổng nấu. Mỗi lần đến gọi món thì nghe phục vụ bàn kêu với người nấu “bảy mìn cón” (không biết có nghe đúng không). Bún và mì khô, lúc đó thường ăn 2 vắt mì, thịt heo nạc, nhiều tóp mỡ giòn rụm. Quán đó hình như giờ không còn nữa.

Lúc Má còn, sáng cuối tuần tôi cũng thường ghé mua món này ở một quán trong Bình Phú. Má thường ăn với cá thay vì thịt heo. Đều như vậy cho đến ngày tôi đi Úc học. Mỗi lần về Việt Nam thăm Má vài tuần cũng không quên ăn sáng cùng bà.

Gần chân cầu Hậu Giang có một quán hủ tiếu người Hoa. Nhờ một lần Ba chở đến ăn sáng mới biết đó là quán của bạn học cấp 2. Lúc còn làm phòng mạch khám bệnh nhi thông thường, nhà tôi thường mua bún mì khô mỗi khi khám xong. Sợ mập nên chỉ mua 2 tô cho hai vợ chồng và hai đứa con. May là ăn kiểu vậy mà bạn tôi giờ vẫn bán đều đều mà không bị “phá sản”… 😀

Lúc mới về làm lại phòng khám, sáng đi làm tôi đạp xe từ đầu đường Chợ Lớn, ghé ăn từng quán mì người Hoa, cuối cùng chọn được chổ này vừa miệng. Giờ làm khách hàng thường xuyên, bà chủ thấy thì chỉ cần hỏi “như cũ hả?”. Ừ, vẫn là “bẩy mìn cón” (không biết có đúng không) ăn với cá. Mai về Úc rồi, chắc lại thèm …bún mì khô 😀

,

* Lúc sáng chụp hình bị chị chủ thấy “hỏi thăm”, đành cười giả lả nói đang viết bài review món ăn … ghê chưa.

16/11/2025
KHI BỮA ĂN TRỞ THÀNH NỖI SỢ(Bài viết riêng cho Thời báo Kinh Tế Sài Gòn, đăng ngày 13/11/2025)Trong cộng đồng, nhiều phụ...
14/11/2025

KHI BỮA ĂN TRỞ THÀNH NỖI SỢ

(Bài viết riêng cho Thời báo Kinh Tế Sài Gòn, đăng ngày 13/11/2025)

Trong cộng đồng, nhiều phụ huynh nghĩ con biếng ăn, kén ăn, hay sợ ăn chỉ là thói quen xấu hoặc phản ứng tâm lý tạm thời. Nhưng trên thực tế, đó có thể là biểu hiện của một rối loạn tâm thần nghiêm trọng - nhóm được gọi chung là rối loạn ăn uống (Eating Disorders).

Một bé gái tuổi vị thành niên được ba mẹ đưa đến khám với mong đợi là điều trị tâm lý giúp con thèm ăn hơn. Bé gái gầy gò, mệt và có vẻ chán nản. Gia đình cho biết con đã được điều trị loét dạ dày và viêm do vi khuẩn Helicobacter pylori suốt ba tháng nay nhưng chưa cải thiện nhiều. Trước đó, vì lo con quá ốm, ba mẹ từng ép con ăn trong thời gian dài. Khi hỏi kỹ hơn, ba mẹ cho biết con có giai đoạn dư cân cách đây khoảng ba năm, và khi làm việc riêng, con có kể từng bị bạn bè trêu chọc vì ngoại hình trong giai đoạn đó. Con khóc nhiều, muốn chết vì khổ quá và từ chối nói về những chuyện trong quá khứ.

Không chỉ là chuyện “không chịu ăn”

Theo ước tính toàn cầu, khoảng 9% dân số thế giới sẽ mắc một dạng rối loạn ăn uống trong suốt cuộc đời của họ(1). Ở Việt Nam, chưa có số liệu thống kê đầy đủ, nhưng tỷ lệ ghi nhận tại các nước có điều kiện tương đồng đang tăng nhanh, đặc biệt ở tuổi thiếu niên.

Rối loạn ăn uống không chỉ ảnh hưởng đến vóc dáng, mà còn gây ra hàng loạt hậu quả nặng nề về thể chất, như suy kiệt, rối loạn tim mạch, rối loạn điện giải, tổn thương dạ dày và cả tâm lý, như trầm cảm, lo âu, ám ảnh, thậm chí có thể dẫn đến tử vong nếu không được điều trị đúng cách(3).

Trong thực hành lâm sàng, ba dạng rối loạn ăn uống thường gặp nhất là chán ăn tâm thần (anorexia nervosa), cuồng ăn tâm thần (bulimia nervosa) và rối loạn ăn uống vô độ (binge eating disorder).

Chán ăn tâm thần (Anorexia Nervosa - AN). Chiếm khoảng 0,8% nữ giới và 0,3% nam giới (2), đây là rối loạn nguy hiểm nhất trong nhóm vì tỷ lệ tử vong cao. Người mắc AN thường hạn chế nghiêm trọng lượng thức ăn, sợ hãi tăng cân, và có nhận thức sai lệch về hình thể - luôn cho rằng mình béo dù đã gầy đến mức báo động. Ở trẻ vị thành niên, điều này có thể bắt đầu từ những nhận xét vô tình, những lời trêu chọc của bạn bè, hoặc hình ảnh trên mạng tôn vinh vóc dáng “mảnh mai”. Khi không kiểm soát được cơ thể, việc siết chặt ăn uống mang lại cho trẻ cảm giác “được quyền kiểm soát” - nhưng rồi chính điều đó lại kiểm soát ngược lại cuộc sống của trẻ.

Cuồng ăn tâm thần (Bulimia Nervosa - BN). Khoảng 1,5% nữ giới và 0,5% nam giới có thể mắc BN(2). Trẻ mắc BN trải qua những cơn ăn vô độ - ăn rất nhiều trong thời gian ngắn, sau đó tự gây nôn, dùng thuốc nhuận tràng, nhịn ăn hoặc tập thể dục quá mức để “bù lại”. Cảm giác tội lỗi và xấu hổ xuất hiện sau mỗi lần như vậy, khiến các em rơi vào vòng xoắn: ăn - nôn - xấu hổ - lại ăn tiếp. Rối loạn này thường khó phát hiện, vì trẻ vẫn có cân nặng gần bình thường.

Rối loạn ăn uống vô độ (Binge Eating Disorder - BED). Đây là rối loạn phổ biến nhất, chiếm 2,8% ở nữ và 1% ở nam(2). Khác với BN, người mắc BED không có hành vi bù trừ. Họ thường ăn rất nhiều, mất kiểm soát, dù không đói, rồi rơi vào tự trách, buồn bã. Rối loạn này thường liên quan đến stress, sang chấn tâm lý hoặc cảm xúc tiêu cực bị dồn nén.

Nguyên nhân chung

Dù mỗi dạng có biểu hiện khác nhau, chúng đều bắt nguồn từ sự kết hợp phức tạp giữa yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội.

Về sinh học, các nghiên cứu chỉ ra yếu tố di truyền đóng vai trò đáng kể: người có người thân từng mắc rối loạn ăn uống có nguy cơ cao hơn gấp 6-10 lần (2). Các bất thường trong hoạt động của các chất dẫn truyền thần kinh liên quan đến cảm xúc và cảm giác no cũng được ghi nhận.

Về tâm lý, những trẻ có tính cách hoàn hảo, cầu toàn, dễ lo âu, tự phê phán cao hoặc từng trải qua sang chấn tâm lý, bạo lực học đường thường dễ phát triển rối loạn ăn uống hơn. Ở tuổi dậy thì, khi cơ thể thay đổi nhanh chóng, việc cảm thấy “mất kiểm soát” về hình thể dễ dẫn đến nỗ lực kiểm soát cực đoan bằng cách ăn kiêng nghiêm ngặt.

Về xã hội - môi trường, ảnh hưởng từ mạng xã hội, truyền thông, văn hóa tôn sùng vóc dáng mảnh mai khiến nhiều trẻ đồng nhất “đẹp = gầy”. Sự so sánh liên tục với bạn bè hoặc thần tượng cũng có thể làm tăng cảm giác tự ti. Trong một số trường hợp, bố mẹ vô tình góp phần khi so sánh, nhận xét về cân nặng hoặc ép ăn, mà không biết rằng việc này có thể làm trẻ thêm mất kiểm soát và chống đối.

Các rối loạn tâm thần thường đi kèm

Rối loạn ăn uống hiếm khi xuất hiện đơn lẻ. Khoảng 70% người bệnh có ít nhất một rối loạn tâm thần đi kèm(3). Phổ biến nhất là trầm cảm, rối loạn lo âu, và rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD).

Trầm cảm khiến người bệnh mất hứng thú với cuộc sống, giảm năng lượng, và càng làm trầm trọng thêm hành vi hạn chế ăn. Trong khi đó, lo âu và ám ảnh khiến việc ăn uống bị kiểm soát quá mức, hoặc sợ hãi thức ăn. Một số trường hợp khác có thể kèm rối loạn nhân cách, đặc biệt là kiểu né tránh hoặc ám ảnh.

Điều trị và hy vọng phục hồi

Việc điều trị rối loạn ăn uống thường cần một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, bác sĩ tâm thần, nhà tâm lý và chuyên gia dinh dưỡng. Với trường hợp bé gái được nhắc đến ở phần đầu bài viết, con được chẩn đoán trầm cảm và chán ăn tâm thần. Tình trạng thể chất của con khi đến khám khá suy kiệt, tinh thần mệt mỏi, gần như mất hứng thú với mọi hoạt động nên cần nhiều thời gian và nỗ lực để điều trị.

Trong điều trị, liệu pháp tâm lý vẫn giữ vai trò trung tâm. Trong đó, Liệu pháp Nhận thức - Hành vi (Cognitive Behavioral Therapy - CBT) giúp trẻ nhận diện và thay đổi những suy nghĩ méo mó về hình thể, thức ăn và giá trị bản thân. Liệu pháp Gia đình (Family-Based Therapy) đặc biệt quan trọng với trẻ vị thành niên, bởi môi trường gia đình chính là yếu tố duy trì hoặc phục hồi rối loạn. Khi cha mẹ học được cách lắng nghe, giảm áp lực, và không còn “ép ăn” như một cách thể hiện tình thương, quá trình điều trị sẽ tiến triển rõ rệt hơn.

Song song đó, hỗ trợ y khoa đóng vai trò bảo vệ an toàn sinh học cho trẻ. Việc theo dõi định kỳ các chỉ số như điện giải, men gan, tim mạch, mật độ xương hay tình trạng dinh dưỡng giúp phát hiện sớm biến chứng và điều chỉnh can thiệp kịp thời. Hỗ trợ dinh dưỡng cũng là một phần không thể thiếu, nhằm giúp trẻ ăn uống trở lại một cách an toàn, không sợ hãi, và từng bước khôi phục cảm giác đói - no tự nhiên. Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể chỉ định thuốc điều trị rối loạn tâm lý đi kèm.

Trên hết, điều quan trọng là cha mẹ cần thay đổi cách nhìn nhận: không xem việc ăn uống đơn thuần là chuyện dinh dưỡng, mà là vấn đề gắn liền với cảm xúc và cảm giác an toàn. Việc khen - chê ngoại hình, so sánh cân nặng, hoặc ép trẻ ăn thường vô tình củng cố cảm giác mất kiểm soát và tội lỗi trong trẻ. Khi cha mẹ biết dừng lại, lắng nghe và tạo điều kiện cho con tự tìm lại mối quan hệ tích cực với thức ăn, đó mới là bước đầu tiên của sự hồi phục.

Rối loạn ăn uống là một căn bệnh phức tạp và dễ tái phát, nhưng hoàn toàn có thể hồi phục nếu được phát hiện và điều trị sớm. Nhiều trẻ sau một thời gian trị liệu đã dần trở lại trường học, sinh hoạt bình thường, biết yêu thương bản thân và hiểu rằng cơ thể không phải là thứ để kiểm soát, mà là một phần đáng được chăm sóc và trân trọng. Điều đó đòi hỏi thời gian, sự kiên nhẫn và tình yêu đúng cách - thứ thuốc tinh tế và bền bỉ nhất mà khoa học vẫn chưa thể đóng gói thành viên.

, ,

TS.BS. Phạm Minh Triết

Tài liệu tham khảo
(1). Global Burden of Disease Study 2019. (2019). Eating disorders: level 3 cause. The Lancet, 396(10258), 1204-1222.
(2). Udo, T., & Grilo, C. M. (2018). Prevalence and Correlates of DSM-5 - Defined Eating Disorders in a Nationally Representative Sample of U.S. Adults. Biological Psychiatry, 84(5), 345-354.
(3). van Eeden, A. E., van Hoeken, D., & Hoek, H. W. (2021). Incidence, prevalence and mortality of anorexia nervosa and bulimia nervosa. Current Opinion in Psychiatry, 34(6), 515-524.

[Bài này thử nghiệm tiếng Anh do FB gợi ý, với sự hỗ trợ của ChatGPT - dĩ nhiên là tôi có xem lại]WHEN EATING BECOMES FE...
14/11/2025

[Bài này thử nghiệm tiếng Anh do FB gợi ý, với sự hỗ trợ của ChatGPT - dĩ nhiên là tôi có xem lại]

WHEN EATING BECOMES FEAR

(Separate article for Saigon Economic Times, 13/11/2025)

In many families, parents often think their children’s refusal to eat, being too picky, or eating very little is simply a habit or a temporary emotional issue. But in reality, these behaviors can be signs of a serious condition — a group of problems known broadly as eating disorders.

A teenage girl was once brought to the clinic by her parents, hoping therapy would help her “eat better.” She was thin, tired, and clearly unhappy. The family said she had been treated for stomach problems for three months but had shown little improvement. Out of fear that she was too weak, the parents had forced her to eat for a long time. When asked further, they shared that she had been overweight about three years earlier and was teased by friends because of her appearance. Whenever that period of her life was mentioned, she would cry, talk about wanting to die, and refuse to say anything more.

More than just “not eating”

Worldwide, about 9% of people are estimated to experience some form of an eating disorder during their lives (1). In Vietnam, although we lack full statistics, countries with similar conditions are seeing a fast increase — especially among teenagers.

Eating disorders affect both the body and the mind. They can lead to exhaustion, heart problems, electrolyte imbalance, digestive issues, depression, anxiety, and in severe cases, can even be life-threatening if not treated early (3).

In clinical practice, the three most common types are:

Anorexia Nervosa (AN).
This condition affects about 0.8% of women and 0.3% of men (2). It is considered the most dangerous in this group due to its high risk of complications. People with AN severely restrict food, fear weight gain, and often see themselves as “fat” even when they are dangerously thin. For teenagers, it can start from teasing, random comments about appearance, or images online that idealize extremely slim bodies. Restricting food can give them a brief sense of control — but eventually, it takes control of their lives.

Bulimia Nervosa (BN).
About 1.5% of women and 0.5% of men may experience BN (2). People with BN go through repeated cycles of overeating in a short period, followed by attempts to “undo” it — such as vomiting, taking laxatives, fasting, or exercising excessively. Feelings of guilt and shame follow each cycle, trapping them in a painful loop. Because their weight is often still normal, families may not notice early.

Binge Eating Disorder (BED).
This is the most common type, affecting about 2.8% of women and 1% of men (2). People with BED often eat large amounts of food even when not hungry. They feel out of control, then fall into guilt and sadness afterward. This condition is frequently linked to stress, emotional distress, or unresolved negative experiences.

Why do these problems happen?

Although each type looks different, they tend to arise from a mix of biological, psychological, and social factors.

Biologically, people with a family history of eating problems are 6–10 times more likely to develop similar issues (2). Some changes in brain chemicals related to emotion or appetite regulation may also play a role.

Psychologically, children who try too hard to be perfect, worry excessively, are very self-critical, or have experienced emotional hurt or bullying are at higher risk. During puberty, the body changes rapidly, and many teenagers feel they have “lost control,” so they turn to strict dieting as a way to regain it.

Social and environmental pressures also matter. Social media, movies, and advertising often present “slim equals beautiful.” Constant comparison with friends or celebrities can lower self-esteem. Sometimes, parents unintentionally contribute through comments about weight or forcing their child to eat, which may backfire and make the child feel even more out of control.

Other mental health issues often appear together

Eating disorders rarely come alone. About 70% of affected individuals have at least one accompanying mental health condition (3). The most common are depression, anxiety, and obsessive thoughts or behaviors.

Depression makes people lose interest in life and feel drained, which worsens restrictive eating. Anxiety can create intense fear around food. Some individuals may also have difficulties with self-image or personality traits that make them more vulnerable.

Treatment — and hope

Treating eating disorders is a long process that requires close teamwork between the family, therapists, mental-health doctors, and nutrition professionals. In the case of the girl mentioned earlier, she was diagnosed with depression along with her eating difficulties. When she was brought in, she was physically weak, mentally tired, and had lost interest in nearly everything — so treatment required patience and steady support.

Psychotherapy plays the central role. Cognitive-behavioral approaches help young people recognize and challenge distorted beliefs about food, weight, and self-worth. Family-based approaches are especially important for teenagers, because home is where the healing — or worsening — often happens. When parents learn to listen better, reduce pressure, and stop using force or criticism during meals, progress becomes clearer.

Medical support is also essential. Regular checks of electrolytes, heart function, nutrition levels, and other basic markers help detect complications early. Guidance from nutrition specialists helps children eat again safely, rebuild natural hunger cues, and slowly recover their strength. In some cases, doctors may give medication if depression or anxiety is severe.

Above all, parents need to shift their mindset. Eating is not only about nutrition — it is deeply tied to emotions and a sense of safety. Comments about appearance, comparing weight, or forcing children to eat often make things worse. When parents slow down, listen, and help their children build a healthier relationship with food, that is the first real step toward recovery.

Eating disorders are complex and can return if not treated well, but recovery is absolutely possible. Many young people, after months or years of treatment, return to school, regain confidence, and learn to care for their bodies with kindness instead of control. It takes time, patience, and the right kind of love — the most gentle and enduring medicine we have yet to put into a bottle.

, , ,

Pham Minh Triet, MD, MPH, PhD in Psychology

References

(1). Global Burden of Disease Study 2019. (2019). Eating disorders: level 3 cause. The Lancet, 396(10258), 1204-1222.

(2). Udo, T., & Grilo, C. M. (2018). Prevalence and Correlates of DSM-5 - Defined Eating Disorders in a Nationally Representative Sample of U.S. Adults. Biological Psychiatry, 84(5), 345-354.

(3). van Eeden, A. E., van Hoeken, D., & Hoek, H. W. (2021). Incidence, prevalence and mortality of anorexia nervosa and bulimia nervosa. Current Opinion in Psychiatry, 34(6), 515-524.

[Bài này thử nghiệm tiếng Anh do FB gợi ý, với sự hỗ trợ của ChatGPT - dĩ nhiên là tôi có xem lại]

WHEN EATING BECOMES FEAR

(An exclusive article for The Saigon Times, 13/11/2025)

In many families, parents often think their children’s refusal to eat, being too picky, or eating very little is simply a habit or a temporary emotional issue. But in reality, these behaviors can be signs of a serious condition — a group of problems known broadly as eating disorders.

A teenage girl was once brought to the clinic by her parents, hoping therapy would help her “eat better.” She was thin, tired, and clearly unhappy. The family said she had been treated for stomach problems for three months but had shown little improvement. Out of fear that she was too weak, the parents had forced her to eat for a long time. When asked further, they shared that she had been overweight about three years earlier and was teased by friends because of her appearance. Whenever that period of her life was mentioned, she would cry, talk about wanting to die, and refuse to say anything more.

More than just “not eating”

Worldwide, about 9% of people are estimated to experience some form of an eating disorder during their lives (1). In Vietnam, although we lack full statistics, countries with similar conditions are seeing a fast increase — especially among teenagers.

Eating disorders affect both the body and the mind. They can lead to exhaustion, heart problems, electrolyte imbalance, digestive issues, depression, anxiety, and in severe cases, can even be life-threatening if not treated early (3).

In clinical practice, the three most common types are:

Anorexia Nervosa (AN).
This condition affects about 0.8% of women and 0.3% of men (2). It is considered the most dangerous in this group due to its high risk of complications. People with AN severely restrict food, fear weight gain, and often see themselves as “fat” even when they are dangerously thin. For teenagers, it can start from teasing, random comments about appearance, or images online that idealize extremely slim bodies. Restricting food can give them a brief sense of control — but eventually, it takes control of their lives.

Bulimia Nervosa (BN).
About 1.5% of women and 0.5% of men may experience BN (2). People with BN go through repeated cycles of overeating in a short period, followed by attempts to “undo” it — such as vomiting, taking laxatives, fasting, or exercising excessively. Feelings of guilt and shame follow each cycle, trapping them in a painful loop. Because their weight is often still normal, families may not notice early.

Binge Eating Disorder (BED).
This is the most common type, affecting about 2.8% of women and 1% of men (2). People with BED often eat large amounts of food even when not hungry. They feel out of control, then fall into guilt and sadness afterward. This condition is frequently linked to stress, emotional distress, or unresolved negative experiences.

Why do these problems happen?

Although each type looks different, they tend to arise from a mix of biological, psychological, and social factors.

Biologically, people with a family history of eating problems are 6–10 times more likely to develop similar issues (2). Some changes in brain chemicals related to emotion or appetite regulation may also play a role.

Psychologically, children who try too hard to be perfect, worry excessively, are very self-critical, or have experienced emotional hurt or bullying are at higher risk. During puberty, the body changes rapidly, and many teenagers feel they have “lost control,” so they turn to strict dieting as a way to regain it.

Social and environmental pressures also matter. Social media, movies, and advertising often present “slim equals beautiful.” Constant comparison with friends or celebrities can lower self-esteem. Sometimes, parents unintentionally contribute through comments about weight or forcing their child to eat, which may backfire and make the child feel even more out of control.

Other mental health issues often appear together

Eating disorders rarely come alone. About 70% of affected individuals have at least one accompanying mental health condition (3). The most common are depression, anxiety, and obsessive thoughts or behaviors.

Depression makes people lose interest in life and feel drained, which worsens restrictive eating. Anxiety can create intense fear around food. Some individuals may also have difficulties with self-image or personality traits that make them more vulnerable.

Treatment — and hope

Treating eating disorders is a long process that requires close teamwork between the family, therapists, mental-health doctors, and nutrition professionals. In the case of the girl mentioned earlier, she was diagnosed with depression along with her eating difficulties. When she was brought in, she was physically weak, mentally tired, and had lost interest in nearly everything — so treatment required patience and steady support.

Psychotherapy plays the central role. Cognitive-behavioral approaches help young people recognize and challenge distorted beliefs about food, weight, and self-worth. Family-based approaches are especially important for teenagers, because home is where the healing — or worsening — often happens. When parents learn to listen better, reduce pressure, and stop using force or criticism during meals, progress becomes clearer.

Medical support is also essential. Regular checks of electrolytes, heart function, nutrition levels, and other basic markers help detect complications early. Guidance from nutrition specialists helps children eat again safely, rebuild natural hunger cues, and slowly recover their strength. In some cases, doctors may give medication if depression or anxiety is severe.

Above all, parents need to shift their mindset. Eating is not only about nutrition — it is deeply tied to emotions and a sense of safety. Comments about appearance, comparing weight, or forcing children to eat often make things worse. When parents slow down, listen, and help their children build a healthier relationship with food, that is the first real step toward recovery.

Eating disorders are complex and can return if not treated well, but recovery is absolutely possible. Many young people, after months or years of treatment, return to school, regain confidence, and learn to care for their bodies with kindness instead of control. It takes time, patience, and the right kind of love — the most gentle and enduring medicine we have yet to put into a bottle.

, , ,

Pham Minh Triet, MD, MPH, PhD in Psychology

References

(1). Global Burden of Disease Study 2019. (2019). Eating disorders: level 3 cause. The Lancet, 396(10258), 1204-1222.

(2). Udo, T., & Grilo, C. M. (2018). Prevalence and Correlates of DSM-5 - Defined Eating Disorders in a Nationally Representative Sample of U.S. Adults. Biological Psychiatry, 84(5), 345-354.

(3). van Eeden, A. E., van Hoeken, D., & Hoek, H. W. (2021). Incidence, prevalence and mortality of anorexia nervosa and bulimia nervosa. Current Opinion in Psychiatry, 34(6), 515-524.

Address

Canberra Central, ACT

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when BS PHẠM MINH TRIẾT posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram