BS PHẠM MINH TRIẾT

BS PHẠM MINH TRIẾT Pursuit of Happiness and Excellence Bs Phạm Minh Triết là Trưởng Khoa Tâm Lý – Bệnh viện Nhi Đồng 1 Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 – 2018.

Mục tiêu nghề nghiệp là hướng đến cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tinh thần toàn diện và phù hợp cho trẻ em Việt Nam dựa trên những bằng chứng khoa học. Bs Triết tốt nghiệp chương trình Bác sĩ Y Khoa tại Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch năm 1997. Năm 2010, Bs Minh Triết học xong chương trình Thạc sỹ Y tế Công (Master of Public Health) tại Viện Nhiệt Đới Hoàng Gia Amsterdam tại Hà Lan (Royal Tropical Institute – Amsterdam). Năm 2014, Bs Minh Triết hoàn thành chương trình Thạc sỹ Tâm Lý Lâm Sàng do Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch kết hợp với Trường Tâm Lý Thực Hành – Pháp (Ecole de Psychologues Praticiens). Tháng 7/2024, Bs Phạm Minh Triết tốt nghiệp chương trình Tiến Sỹ Tâm Lý tại Trường Nghiên cứu Tâm lý thuộc Đại Học Quốc Gia Australia (Research School of Psychology – The Australian National University). Một số thông tin liên quan:

https://vnexpress.net/tac-gia/pham-minh-triet-1208.html

https://nld.com.vn/suc-khoe/vi-sao-tre-so-di-hoc-20170718210059553.htm

https://nld.com.vn/suc-khoe/ca-biet-khong-phai-la-hu-hong-20170702213100495.htm

https://nld.com.vn/suc-khoe/tre-hieu-dong-hay-tang-dong-20171125212301614.htm

https://nld.com.vn/suc-khoe/giai-ma-hien-tuong-tre-hoc-kho-2015122421000774.htm

https://nld.com.vn/suc-khoe/nghien-an-toc-la-roi-loan-tam-than-201703142217362.htm

https://tuoitre.vn/con-bi-stress-cha-me-nao-co-hay-1106944.htm

https://tuoitre.vn/may-tinh-bang-thay-sgk-chua-luong-het-tieu-cuc-636973.htm

https://congnghe.tuoitre.vn/bao-mau-cong-nghe-so-564447.htm

https://thanhnien.vn/tre-bi-xam-hai-tinh-duc-chiu-am-anh-tam-ly-nang-ne-lau-dai-post838985.html

https://thanhnien.vn/bac-si-bv-nhi-dong-1-noi-gi-ve-mot-truong-hop-do-mo-hoi-mau-post784724.html

https://thanhnien.vn/giup-tre-bi-bao-hanh-vuot-noi-dau-ky-1-nhung-am-anh-con-mai-post386344.html

https://thanhnien.vn/cha-me-phat-hoang-thay-con-thu-dam-moi-biet-con-som-day-thi-post580782.html..

NGHIỆN GAME - KHI TRÒ CHƠI TRỞ THÀNH VẤN ĐỀ SỨC KHỎE(Bài viết trên Thời báo Kinh Tế Sài Gòn, đăng ngày 4/12/2025)Trong n...
07/12/2025

NGHIỆN GAME - KHI TRÒ CHƠI TRỞ THÀNH VẤN ĐỀ SỨC KHỎE

(Bài viết trên Thời báo Kinh Tế Sài Gòn, đăng ngày 4/12/2025)

Trong những năm gần đây, nhiều phụ huynh tại Việt Nam nhận thấy con mình dành quá nhiều thời gian cho điện thoại, máy tính hoặc máy chơi game, khiến học hành sa sút, ngủ không đủ giấc, cáu gắt mỗi khi bị nhắc nhở, thậm chí bỏ ăn, bỏ ngủ. Khi những hành vi này kéo dài, trẻ có nguy cơ mắc rối loạn chơi game - một rối loạn sức khỏe tâm thần đã được công nhận trên thế giới.(1)(2)

Năm 2018, Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization - WHO) chính thức đưa rối loạn chơi game (Gaming Disorder) vào Bảng phân loại bệnh tật quốc tế phiên bản 11 (ICD-11), bắt đầu có hiệu lực từ năm 2022.(1) Trước đó, năm 2013, Hiệp hội Tâm thần Mỹ (American Psychiatric Association) đã đưa rối loạn chơi game trên Internet (Internet Gaming Disorder - IGD) vào danh mục “cần nghiên cứu thêm” trong Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần DSM-5, và danh mục này vẫn được giữ nguyên trong DSM-5-TR năm 2022.(2)

Rối loạn chơi game được đánh giá có mức độ nghiêm trọng tương đương các rối loạn nghiện hành vi và nghiện chất, như nghiện cờ bạc, nghiện rượu hay nghiện chất kích thích, gây ảnh hưởng trực tiếp lên não bộ, khả năng tự kiểm soát và đời sống hàng ngày của trẻ.

Tiêu chuẩn chẩn đoán theo ICD-11

Theo ICD-11, trẻ được chẩn đoán rối loạn chơi game khi có các biểu hiện như: mất kiểm soát đối với việc chơi game (không thể ngừng hoặc kiểm soát thời gian, tần suất và mức độ chơi), ưu tiên game hơn các hoạt động khác trong đời sống (bỏ học, bỏ ăn, hạn chế giao tiếp xã hội, mất hứng thú với sở thích trước đây), tiếp tục chơi dù đã có hậu quả rõ ràng (học tập sa sút, xung đột gia đình, sức khỏe suy giảm), kèm theo sự ảnh hưởng nghiêm trọng đến học tập, công việc hoặc các mối quan hệ xã hội.

Các biểu hiện này cần kéo dài ít nhất 12 tháng, hoặc thời gian ngắn hơn nếu mức độ nghiêm trọng cao. Khi trẻ đáp ứng toàn bộ tiêu chuẩn trên, có thể chẩn đoán rối loạn chơi game.(1)

Một trường hợp điển hình là cậu bé 14 tuổi bắt đầu chơi game với tần suất thấp nhưng dần tăng lên, đến mức thức sáng đêm để chơi trên điện thoại. Khi bị hạn chế, trẻ có phản ứng tiêu cực, khó chịu, và cơ thể trở nên gầy gò, mệt mỏi, lười ăn, giấc ngủ cùng kết quả học tập đều giảm rõ rệt. Sau khi được đánh giá, gia đình và trẻ được hướng dẫn điều trị bằng liệu pháp nhận thức - hành vi dành cho nghiện game (Cognitive Behavioral Therapy - CBT), kết hợp hỗ trợ gia đình để đặt giới hạn, tạo thời gian biểu hợp lý, đồng thời giảm dần thời gian chơi và thay thế bằng các hoạt động thể thao, âm nhạc hay giao tiếp trực tiếp với bạn bè. Thuốc chỉ được cân nhắc khi trẻ kèm theo các vấn đề khác như trầm cảm, lo âu hoặc ADHD nặng. Hiệu quả điều trị phụ thuộc nhiều vào mức độ hợp tác của trẻ và sự thống nhất của phụ huynh; nếu một trong hai yếu tố chưa đầy đủ, tiến triển sẽ khó đánh giá chính xác.

Khi trẻ gầy gò, mệt mỏi, lười ăn do nghiện game

Khi trẻ bắt đầu gầy sút, mệt mỏi hoặc bỏ ăn vì chơi game, phụ huynh nên đưa trẻ đi khám để đánh giá sức khỏe tổng quát nhằm loại trừ các bệnh lý như thiếu máu hay rối loạn tiêu hóa. Song song đó, trẻ cần được đánh giá tâm lý và mức độ nghiện game bởi bác sĩ tâm thần hoặc chuyên viên tâm lý chuyên về nghiện hành vi. Việc điều chỉnh môi trường sinh hoạt nên được thực hiện từng bước, bao gồm giảm dần thời gian chơi game, sắp xếp thời gian biểu cân bằng giữa học tập - nghỉ ngơi - hoạt động thể chất.
Phụ huynh có thể hỗ trợ dinh dưỡng bằng cách cho trẻ ăn nhiều bữa nhỏ, bổ sung thực phẩm giàu năng lượng và vitamin; nếu cần có thể nhờ bác sĩ dinh dưỡng tư vấn. Quá trình theo dõi cần kiên trì, tránh cấm tuyệt đối hoặc tạo áp lực khiến trẻ phản ứng ngược.

Hoạt động và vui chơi phù hợp

Để thay thế thời gian chơi game, phụ huynh có thể khuyến khích trẻ tham gia các hoạt động như thể thao (bóng đá, bơi, bóng rổ, chạy bộ), hoạt động sáng tạo (vẽ, chơi nhạc cụ, làm thủ công), giao tiếp xã hội trực tiếp với bạn bè hoặc tham gia câu lạc bộ, hoạt động tình nguyện. Các hoạt động gia đình như các trò chơi trên bàn (như cờ vua, cờ cá ngựa, cờ tỉ phú, bài UNO, domino,…), nấu ăn, đi dạo cũng giúp tăng gắn kết và giảm phụ thuộc vào thiết bị điện tử. Việc đưa những hoạt động này vào thời gian biểu hàng ngày sẽ giúp trẻ phát triển kỹ năng, tạo thói quen sống cân bằng và lành mạnh.

Phụ huynh không nên “cấm tuyệt đối” mà thay vào đó đặt ra giới hạn hợp lý và thống nhất với trẻ, đồng thời tạo môi trường sinh hoạt cân bằng, bao gồm ăn đúng giờ, ngủ đủ giấc và tham gia các hoạt động ngoài game. Quan sát các dấu hiệu nghiêm trọng như thay đổi hành vi, rối loạn giấc ngủ, bỏ ăn hoặc xung đột gia đình và đưa trẻ đến bác sĩ tâm thần hoặc chuyên viên tâm lý khi cần thiết.(3)

Kết luận

Rối loạn chơi game là một rối loạn thực sự của não bộ trong thời đại số, có thể gây ảnh hưởng sâu sắc đến học tập, sinh hoạt và sức khỏe thể chất của trẻ. Điều trị có thể đạt hiệu quả khi trẻ hợp tác và phụ huynh kiên trì thực hiện các biện pháp hỗ trợ. Những trường hợp chưa hợp tác vẫn cần được theo dõi sát sao và kết hợp hỗ trợ chuyên môn nhằm giảm tác động tiêu cực, giúp trẻ dần quay lại nhịp sống lành mạnh.

, ,

TS. BS. Phạm Minh Triết

Tài liệu tham khảo
(1). World Health Organization (2022). Gaming disorder (6C51) in ICD-11.
(2). American Psychiatric Association (2022). Internet Gaming Disorder in DSM-5-TR.
(3). Park, J. J., Stryjewski, A., Chen, B., & Potenza, M. N. (2025). Treatment of Gaming Disorder in Children and Adolescents: A Systematic Review. Journal of the Korean Academy of Child and Adolescent Psychiatry, 36(3), 106–121. https://doi.org/10.5765/jkacap.250014

RƯỢU VANG … TRẦN…T…R…U…Ồ…N…GNhiều người đọc tựa bài là tưởng có gì đó nóng bỏng, nhưng thực ra nóng duy nhất là… ưu đãi ...
06/12/2025

RƯỢU VANG … TRẦN…T…R…U…Ồ…N…G

Nhiều người đọc tựa bài là tưởng có gì đó nóng bỏng, nhưng thực ra nóng duy nhất là… ưu đãi giảm giá. Đây là thương hiệu rượu giao từ những người làm rượu vang đến thẳng nhà bạn, không màu mè. Bạn đóng tiền trước như nuôi heo đất, sau đó đập heo để mua rượu. Nghe tên hơi “hư”, nhưng bên trong lại trong sáng đến mức khiến bạn hơi thất vọng nếu mong chờ gì khác ngoài rượu. Hơi tiếc, nhưng uống vẫn ngon. 😄🍷

N/a/k/e/d Wines là một thương hiệu rượu vang Úc, giúp người dùng tiếp cận các chai vang độc lập khó tìm ở cửa hàng thông thường, mở rộng lựa chọn so với vang siêu thị. Giá rượu thường rẻ hơn khoảng 20–30% so với vang mainstream. Người dùng linh hoạt tự chọn thời điểm mua và có thể đổi hoặc nhận credit nếu chai không hợp khẩu vị. Đồng thời, mô hình này hỗ trợ các nhà làm vang nhỏ, giúp họ có vốn và thị trường ổn định mà không phải phụ thuộc vào hệ thống phân phối lớn.

Đang suy nghĩ cách mang về Việt Nam mà ít bị phiền hà nhứt. Đã nhờ Đại ca tổ chức, ở Việt Nam có nhiều “đồng đội” đang chờ … 😄🍷 😄🍷 😄🍷 😄🍷 😄🍷 😄🍷

P/S: nhờ ChatGPT làm sẵn cheat sheet về rượu vang Úc. Nhìn ghê vậy chứ Bs Triết "đô" yếu xìu hà 😄

Có lẽ nào con nối nghiệp cha?
06/12/2025

Có lẽ nào con nối nghiệp cha?

DẠY Y KHOA: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HAY BỘ Y TẾ QUẢN LÝ?(Bài viết trên Thời báo Kinh Tế Sài Gòn, đăng ngày 27/11/2025)The...
04/12/2025

DẠY Y KHOA: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HAY BỘ Y TẾ QUẢN LÝ?

(Bài viết trên Thời báo Kinh Tế Sài Gòn, đăng ngày 27/11/2025)

Theo Luật Giáo dục Đại học và các nghị định sửa đổi năm 2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm khung pháp lý, kiểm chuẩn cơ bản và cấp phép mở ngành đại học, trong khi Bộ Y tế quản lý các chương trình chuyên sâu, đặc thù y tế, bao gồm chuyên khoa I, II và bác sĩ nội trú, vốn gắn chặt với thực hành lâm sàng tại bệnh viện.

Trong những năm gần đây, số lượng trường đào tạo y khoa tăng nhanh từ khoảng 11 trường năm 2015 lên gần 70 trường năm 2025. Tuy nhiên, cơ sở thực hành tại bệnh viện chưa theo kịp, nhiều trường mới chỉ có lý thuyết, thiếu bệnh viện thực hành hoặc số lượng bệnh nhân và giảng viên lâm sàng không đủ để đảm bảo sinh viên được trải nghiệm đầy đủ. Đây là một thách thức lớn đối với chất lượng đào tạo và năng lực thực hành của sinh viên.

Thực tiễn đào tạo y khoa: lý thuyết luôn kèm thực hành

Y khoa là ngành đặc thù, nơi mọi biểu hiện bệnh lý đều đa dạng và thay đổi theo từng ca bệnh. Không có cuốn sách nào mô tả đầy đủ mọi tình huống, không có bài giảng nào có thể thay thế kinh nghiệm quan sát, phân tích và ra quyết định của người làm nghề.

Nếu người dạy chưa từng trực tiếp làm lâm sàng, họ chỉ có thể truyền đạt lý thuyết, trong khi sinh viên sẽ gặp khó khăn khi phải phân biệt triệu chứng bình thường và dấu hiệu cảnh báo, đánh giá mức độ nặng nhẹ, hay ra quyết định trong các tình huống thực tế không giống bất kỳ ví dụ nào trong giáo trình. Sinh viên bước vào buổi quan sát đầu tiên sẽ nhận ra ngay sự khác biệt giữa lý thuyết và thực tế, từ đó thấy rõ một lỗ hổng trong tổ chức đào tạo.

Nhìn sang các quốc gia khác, như tại Mỹ, các trường y khoa được kiểm định bởi Ủy ban Kiểm định Trường Y (Liaison Committee on Medical Education - LCME). Đào tạo sau đại học, bao gồm residency (nội trú) và fellowship (chuyên khoa sâu), được quản lý bởi Hội đồng Phẩm chất Y khoa Mỹ (Accreditation Council for Graduate Medical Education - ACGME) và gắn chặt với bệnh viện. Sinh viên phải học trực tiếp trên bệnh nhân thực dưới sự giám sát chặt chẽ, từ đó phát triển năng lực lâm sàng thực sự.

Còn tại Úc, chương trình y khoa được kiểm định bởi Hội đồng Y khoa Úc (Australian Medical Council - AMC), hành nghề do Hội đồng Y khoa Úc - Cơ quan Quản lý Nghề nghiệp Y khoa Úc (Medical Board of Australia - Australian Health Practitioner Regulation Agency - AHPRA) quản lý. Đào tạo chuyên khoa được thực hiện hoàn toàn trong các mạng lưới bệnh viện (hospital networks) dưới sự giám sát của các Hội Y khoa chuyên ngành (Colleges). Tất cả chương trình đại học và sau đại học đều gắn liền với thực hành bệnh viện, từ internship (thực tập bắt buộc sau tốt nghiệp), residency đến specialist training (đào tạo chuyên khoa).

Hay ở Anh, các trường y khoa được kiểm định bởi Ủy ban Y khoa (General Medical Council - GMC), cơ quan này cũng quản lý cấp phép hành nghề và duy trì chuẩn đầu ra cho sinh viên y khoa. Đào tạo sau đại học, bao gồm foundation training (đào tạo thực hành nền tảng) và specialty training, gắn chặt với bệnh viện và các trung tâm trust y tế (NHS Trusts). Sinh viên và bác sĩ trẻ thực hành trực tiếp trên bệnh nhân dưới sự giám sát của bác sĩ có kinh nghiệm, đảm bảo năng lực nghề nghiệp chuẩn quốc tế.

Điểm chung ở Mỹ, Úc và Anh là bệnh viện là trung tâm đào tạo, trường đại học chỉ cung cấp kiến thức nền tảng và nghiên cứu. Việc tách biệt đào tạo lý thuyết và thực hành là không được phép, vì rủi ro giảm năng lực lâm sàng là rất cao.

Thách thức trong bối cảnh Việt Nam

Tại Việt Nam, số lượng trường y khoa tăng nhanh nhưng cơ sở thực hành tại bệnh viện chưa đủ, dẫn đến nguy cơ sinh viên giỏi lý thuyết nhưng thiếu kỹ năng xử lý tình huống thực tế, đặc biệt khi tiếp cận với các ca bệnh phức tạp. Kinh nghiệm nhiều năm trong bệnh viện nhi cho thấy các kỹ năng như cách hỏi bệnh phù hợp từng nhóm tuổi, cách quan sát tổng thể để không bỏ sót dấu hiệu quan trọng, và cách đánh giá mức độ nặng nhẹ dựa trên triệu chứng lẫn thái độ và tương tác của bệnh nhân, chỉ có thể học qua tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân thực.

Thiếu bệnh viện thực hành đủ chuẩn sẽ khiến sinh viên không được trải nghiệm toàn diện, dẫn đến năng lực thực hành hạn chế ngay từ đầu và ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn người bệnh khi họ trở thành bác sĩ.

Trong bối cảnh này, việc tăng quyền quản lý đào tạo y khoa của Bộ Y tế là hợp lý. Bộ Y tế sở hữu hệ thống bệnh viện, đội ngũ giảng viên lâm sàng, quy trình chuyên môn và kinh nghiệm thực tế để đảm bảo đào tạo chất lượng, đồng thời có thể phân bổ sinh viên và ca bệnh hợp lý, tránh tình trạng sinh viên học lý thuyết mà không được thực hành.

Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn giữ vai trò quan trọng trong quản lý khung pháp lý, kiểm chuẩn cơ bản và cấp phép mở ngành, nhưng nội dung chuyên môn và thực hành cần đặt dưới sự giám sát của Bộ Y tế để bảo đảm an toàn bệnh nhân và hiệu quả đào tạo.

Hội nhập quốc tế và triển vọng

Để hội nhập quốc tế, việc thiết kế và công nhận các văn bằng chuyên khoa, bác sĩ nội trú cũng cần dựa trên chuẩn quốc tế, tương tự mô hình residency của Mỹ, specialist training của Úc và foundation/specialty training của Anh. Điều này vừa giúp sinh viên đạt năng lực thực hành chuẩn, vừa tăng khả năng công nhận năng lực khi làm việc ở nước ngoài, đồng thời nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế trong nước.

Nhìn chung, Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển giao, khi số lượng trường y tăng nhanh nhưng hệ thống bệnh viện thực hành chưa theo kịp, dẫn tới nguy cơ lệch pha giữa lý thuyết và thực hành. Nếu không điều chỉnh kịp thời, chất lượng đào tạo sẽ không đồng đều, và người chịu thiệt cuối cùng là bệnh nhân. Các nước phát triển đã cho thấy rằng đào tạo y khoa phải gắn chặt với thực hành, bệnh viện là trung tâm và giảng viên phải là người thực hành thực tế. Đây là tiêu chuẩn quốc tế mà Việt Nam cần hướng tới khi cải tổ hệ thống đào tạo y khoa, nhằm bảo đảm chất lượng nhân lực và an toàn bệnh nhân trong dài hạn.

, ,

TS.BS. Phạm Minh Triết

Nghe nói Việt Nam sắp áp dụng luật phạt 20 đến 30 triệu nếu vợ kiểm soát thu nhập của chồng cũng mừng. Nhưng nghĩ lại … ...
03/12/2025

Nghe nói Việt Nam sắp áp dụng luật phạt 20 đến 30 triệu nếu vợ kiểm soát thu nhập của chồng cũng mừng.

Nhưng nghĩ lại … tiền nộp phạt hình như cũng liên quan đến thu nhập của mình nên … thôi. Cứ đưa vợ giữ hết … may ra con cái và bản thân mình còn có cái ăn cái mặc… 😞 .

Link lớp học "Tổng quan về Rối loạn Phổ Tự Kỷ" đã được gửi qua email cho những phụ huynh đã đăng ký. Lớp sẽ cập nhật nhữ...
02/12/2025

Link lớp học "Tổng quan về Rối loạn Phổ Tự Kỷ" đã được gửi qua email cho những phụ huynh đã đăng ký.

Lớp sẽ cập nhật những kiến thức mới nhất có bằng chứng khoa học về Rối loạn phổ tự kỷ.

Xem chi tiết lớp học ở link phần bình luận hoặc quét mã QR của hình đính kèm.

, , , .

BA LẦN GẶP MẶT Ngay từ những phút đầu của buổi gặp thứ hai, Z. nhìn tôi và nói bằng một giọng nhỏ nhưng dứt khoát: “Con ...
01/12/2025

BA LẦN GẶP MẶT

Ngay từ những phút đầu của buổi gặp thứ hai, Z. nhìn tôi và nói bằng một giọng nhỏ nhưng dứt khoát: “Con thấy con không giống bạn bè… con ít bạn, tính con trầm… sở thích của con thì khác thường nên càng khó có bạn…”. Ở tuổi 16, những câu nói ấy không chỉ là lời kể mà còn là một nỗi hoang mang rất thật về chính mình…

… Z. được mẹ đưa đến khám vì mẹ nghi ngờ “tự kỷ”, vì con nhút nhát, trầm, mất ngủ, và bởi một chẩn đoán trước đó: rối loạn lo âu trầm cảm. Thuốc giúp con ngủ tốt hơn đôi chút nhưng những điều còn lại vẫn không cải thiện rõ ràng, khiến người mẹ lo rằng có thể con đang “mắc một bệnh khác”.

Buổi đầu tiên, sau phần chào hỏi và giới thiệu nguyên tắc làm việc, Z. chọn gặp riêng tôi. Con có một vài biểu hiện để nghĩ đến tình trạng rối loạn lo âu trầm cảm: suy nghĩ dai dẳng, hay lo xa, khó tập trung vào hiện tại, buồn buồn, chán chán, cảm giác bản thân “khác người”, giấc ngủ thất thường. Con có chút căng thẳng lúc bắt đầu nói chuyện, nhưng chỉ vài phút sau, khi đề cập đến những điều con hứng thú—sách, phim, âm nhạc—giọng con trôi chảy, ánh mắt sáng hơn. Lúc đó, tôi không nhìn thấy một cậu bé “đang có vấn đề”, mà là một người trẻ đang nỗ lực diễn giải thế giới bên trong mình.

Z. thường trầm tư nhưng không quá buồn mà có chút hoang mang. Kiểu như “ông cụ non”, con đọc các thể loại triết học, thích phim có tầng ý nghĩa sâu, có thể nghĩ ra nhiều cái kết cho cùng một câu chuyện. Con nghe một dòng nhạc ít phổ biến, rồi tự tìm hiểu đến tận tác giả và hoàn cảnh sáng tác. Ở độ tuổi 16, đó là một hướng phát triển hiếm gặp, nhưng hoàn toàn bình thường. Cái khó của Z. không nằm ở sở thích “không giống ai”, mà nằm ở việc con tự hỏi liệu mình có “bất thường” hay không. Con bị gọi là “dị”, “tự kỷ”, những lời nói tưởng vô hại nhưng lại khiến con thu mình, ngờ vực chính mình.

Tôi dành thời gian giải thích cho Z. và mẹ con về sự phát triển tâm lý ở tuổi vị thành niên – giai đoạn mỗi cá nhân trải rộng theo một đường riêng. Tôi nói với con rằng giữa một thế giới đông đúc, có những đứa trẻ phải đi xa hơn mới tìm được người hợp với mình. Điều đó không có nghĩa là con khác biệt theo hướng tiêu cực. Đơn giản là môi trường xung quanh con chưa đủ rộng để nhận ra giá trị của những điều con đang theo đuổi.

Tôi gợi ý mẹ tìm một lớp học ngoại khóa liên quan đến sở thích của con. Ở đó, rất có thể con sẽ gặp vài bạn có góc nhìn giống mình. Người mẹ, sau đó, đã cho Z. tham gia một môn học ngoại khóa phù hợp. Tại đó, con gặp vài người bạn mới, không cần giải thích quá nhiều về những điều mình thích. Z. nói rằng lần đầu tiên con cảm thấy sự khác biệt của mình không còn là gánh nặng.

Qua ba buổi gặp, tôi thấy Z. thay đổi từng chút một. Nét mặt bớt căng, những câu chuyện dần có thêm sự tự tin. Lần gặp cuối, con ngủ tốt hơn dù đã dừng thuốc trước đó hai tuần. Quan trọng nhất, con không còn đánh giá bản thân bằng những lời nhận xét của người khác.

Buổi thứ ba là lần gặp cuối cũng là ngày cuối tôi làm việc trong đợt tháng 5/2025. Không có điều trị tâm lý gì mà chỉ là một cuộc trò chuyện giữa “hai người bạn”. Z. giới thiệu cho tôi nghe dòng nhạc con yêu thích, chúng tôi bàn về vài đoạn nhạc ngắn, rồi con kể về những người bạn mới trong lớp học ngoại khóa. Trước khi về, Z. cảm ơn tôi vì đã lắng nghe thật sự và đồng cảm, cảm ơn vì đã giải thích cho con hiểu con vẫn đang phát triển bình thường theo cách riêng của con.

Trong tiến trình lớn lên, tuổi vị thành niên luôn là một chặng đường nhiều lớp lang. Nhà tâm lý học Erik Erikson từng mô tả giai đoạn này như một hành trình giữa bản sắc cá nhân và khủng hoảng vai trò (Identity vs Role confusion). Ở đó, người trẻ vừa dò dẫm tìm câu trả lời cho “Tôi là ai?”, vừa bối rối trước những kỳ vọng xung quanh, dễ rơi vào cảm giác lạc lõng khi chưa biết mình thuộc về đâu. Nếu không được hướng dẫn đúng lúc, sự hoang mang ấy có thể kéo dài và trở thành một gánh nặng vô hình, hay thậm chí là những rối loạn về sức khỏe tâm thần.

Khi làm việc với trẻ em và thanh thiếu niên, tôi thường tự nhắc mình rằng điều quan trọng không chỉ là tìm cho được một chẩn đoán. Quan trọng hơn, là hiểu được nhịp phát triển bình thường của các con – những đường vòng, những khúc rẽ, những biểu hiện tưởng như “khác người” nhưng thật ra chỉ là một phần của hành trình đi tìm chính mình. Nhiều khi, ở những trường hợp đến sớm, một sự giải thích nhẹ nhàng, một giờ lắng nghe thật sự, có thể mở ra cho các con và cha mẹ một cái nhìn khác. Và chỉ bấy nhiêu thôi đã đủ để tránh cho trẻ một chặng đường dài điều trị không cần thiết sau này.

,

Bs Phạm Minh Triết

Cũng bày đặt Black Friday này nọ… Mỏi chân gần chết
30/11/2025

Cũng bày đặt Black Friday này nọ…

Mỏi chân gần chết

LINK LỚP HỌC* ĐÃ GỬI QUA EMAIL CHO NHỮNG PHỤ HUYNH HOÀN THÀNH THỦ TỤC ĐĂNG KÝPhụ huynh chưa nhận được link gửi qua email...
28/11/2025

LINK LỚP HỌC* ĐÃ GỬI QUA EMAIL CHO NHỮNG PHỤ HUYNH HOÀN THÀNH THỦ TỤC ĐĂNG KÝ

Phụ huynh chưa nhận được link gửi qua email, vui lòng nhắn tin qua hộp thư FB này hoặc Zalo +61415056599.


*LỚP HỌC DÀNH CHO PHỤ HUYNH CÓ TRẺ MẮC RỐI LOẠN TĂNG ĐỘNG GIẢM CHÚ Ý (ADHD) NGÀY 30/11/2025

Học “thực chiến” từ chính những vấn đề của con:
• Phụ huynh gửi trước những lo lắng của mình về con
• Bác sĩ hướng dẫn phụ huynh những kỹ thuật phù hợp để giải quyết những lo lắng này.
• Những kỹ thuật đã được chứng minh một cách khoa học là có hiệu quả cho hành vi ở trẻ mắc TĐGCY.
• Giải đáp thắc mắc, hỗ trợ sau lớp học.

Đăng ký qua link trong phần bình luận hoặc quét mã QR trong hình đính kèm.

Đang xin giấy phép về Việt Nam
27/11/2025

Đang xin giấy phép về Việt Nam

Bs sẽ làm việc tại Phòng Khám Tâm Lý Nhi Đồng từ ngày 11/12 đến ngày 18/1/2026. Hiện giờ Phụ huynh có thể đăng ký lịch đ...
25/11/2025

Bs sẽ làm việc tại Phòng Khám Tâm Lý Nhi Đồng từ ngày 11/12 đến ngày 18/1/2026. Hiện giờ Phụ huynh có thể đăng ký lịch đến hết ngày 30/12/2025.

Khả năng: Đánh giá, chẩn đoán, định hướng can thiệp, điều trị tâm lý, điều trị thuốc các vấn đề về phát triển và tâm lý trẻ em: chậm, tăng động, kém chú ý, tự kỷ, lo âu, trầm cảm, vấn đề hành vi, ám ảnh cưỡng chế, ...

Đăng ký khám qua Zalo của Phòng Khám Tâm Lý Nhi Đồng số: +84 981502721.

, theo dõi cứng

Định lười biếng nhưng mở lớp này để ủng hộ đồng bào ở vùng bị lũ lụt.LỚP TỔNG QUAN CHUNG VỂ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ DÀNH CHO ...
25/11/2025

Định lười biếng nhưng mở lớp này để ủng hộ đồng bào ở vùng bị lũ lụt.

LỚP TỔNG QUAN CHUNG VỂ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ DÀNH CHO PHỤ HUYNH

- Nội dung:
o Biểu hiện: diễn giải từ tiêu chuẩn chẩn đoán đến biểu hiện trong thực tế
o Nguyên nhân
o Tiên lượng
o Hướng can thiệp điều trị
o Trả lời câu hỏi

- Đối tượng: phụ huynh
- Thời gian: ngày thứ bảy, 06/12/2025, từ 9:00 đến 11:00 sáng, giờ Việt Nam.
- Hình thức: qua Google Meet. Phụ huynh sẽ được gửi link tham gia lớp qua địa chỉ email đăng ký.
- Phí tham gia lớp: 100.000 Việt Nam Đồng/người. Toàn bộ số tiền thu được sẽ được đóng cho Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam để hỗ trợ đồng bào vùng lũ lụt.

- Nội dung chuyển khoản: Lop TK 061225 – Tên của người học. Ví dụ: Lop TK 061225 – Nguyen Van A.
- Đăng ký qua link ở phần bình luận hoặc quét mã QR đính kèm.

Mọi thắc mắc hoặc cần trợ giúp, xin liên hệ qua hộp thư của FB BS PHẠM MINH TRIẾT (https://www.facebook.com/bsphamminhtriet) , FB Phòng Khám Tâm Lý Nhi Đồng (https://www.facebook.com/tamlynhidong) , hoặc Zalo của Bs Triết: +61415056599, của Phòng Khám: +84981502721.

Trân trọng,

, ,

Address

Canberra Central, ACT

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when BS PHẠM MINH TRIẾT posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram