24/07/2023
6 khóa luận tốt nghiệp dược sĩ năm 2023 của trường Đại học Dược Hà Nội về tối ưu chế độ liều thuốc thông qua giám sát nồng độ thuốc trong máu (TDM)
📌Mùa bảo vệ khóa luận tốt nghiệp dược sĩ năm 2023 của trường Đại học Dược Hà Nội đã có sự góp mặt 12 khóa luận của các sinh viên K73 thực hiện dưới sự hướng dẫn của giảng viên, chuyên viên tại Trung tâm DI&ADR Quốc gia. Trong đó, có 6 khóa luận nghiên cứu nhằm tối ưu chế độ liều thuốc thông qua giám sát nồng độ thuốc trong máu (TDM), mô phỏng PK/PD dựa trên các mô hình dược động học quần thể trên các quần thể bệnh nhân đặc biệt cũng như đánh giá vai trò của TDM vancomycin trong giảm thiểu nguy cơ độc tính của thuốc:
📕 Hiệu chỉnh liều vancomycin thông qua giám sát nồng độ thuốc trong máu trên bệnh nhân nhi tại Khoa Điều trị tích cực nội khoa, Bệnh viện Nhi Trung ương (SV. Trần Thị Hạnh Nguyên).
Qua hai giai đoạn nghiên cứu thông qua việc hồi cứu 146 hồ sơ bệnh án của bệnh nhi sử dụng vancomycin được TDM theo Ctrough và 59 bệnh án được TDM vancomycin theo AUC, nhóm tác giả rút ra một số kết luận như sau:
- Về đặc điểm sử dụng và giám sát nồng độ thuốc trong máu theo Ctrough: Có 52,7% bệnh nhân có ít nhất 1 lần đạt đích nồng độ đáy 10 – 15 mg/L trong quá trình sử dụng vancomycin. Tỷ lệ bệnh nhân đạt đích ở lần định lượng đầu tiên là 26,7%. Có 20,5% bệnh nhân ghi nhận có xuất hiện biến cố trên thận.
- Về đặc điểm sử dụng và giám sát nồng độ thuốc trong máu theo AUC: Tỷ lệ đạt đích AUC 400 – 600 mg.h/L sau chế độ liều đầu tiên tương đối thấp, 32,2%. Có 59,3% bệnh nhân có ít nhất một lần đạt đích AUC trong quá trình sử dụng vancomycin. Tỷ lệ đạt đích tích luỹ sau lần hiệu chỉnh liều thứ 3 đạt đến 100,0%. Mức độ đồng thuận giữa các phương pháp ước đoán AUC (AUC tính theo phương trình dược động học bậc 1 hoặc AUC ước đoán theo Bayes từ 1 nồng độ) so với AUC ước đoán theo Bayes từ 2 nồng độ trong việc đánh giá khả năng đạt đích tương đối cao, đều lớn hơn 85,0%.
📕 Khảo sát kết quả giám sát nồng độ vancomycin trong máu tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới thành phố Hồ Chí Minh (SV. Tăng Quốc An)
Qua khảo sát thực trạng giám sát nồng độ vancomycin trong máu trên 1206 người trưởng thành tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ 01/01/2019 đến 31/12/2021, nhóm tác giả rút ra một số kết luận như sau:
- Có 39% bệnh nhân được sử dụng liều nạp, tỷ lệ này đặc biệt thấp trong giai đoạn bệnh nhân được TDM theo quy trình mục tiêu Ctrough (18%) và đã tăng lên 60% trong giai đoạn thực hiện quy trình TDM theo AUC
- Tỷ lệ đạt đích AUC ở lần định lượng đầu tiên là 36%, tỷ lệ này tăng 49% ở lần định lượng thứ hai, sự khác biệt giữa hai nhóm bệnh nhân không có ý nghĩa. Tỷ lệ bệnh nhân có ít nhất một lần đạt đích AUC là 54% ở nhóm TDM theo Ctrough và 60% ở nhóm TDM theo AUC.
📕 Phân tích đặc điểm biến cố trên thận ở bệnh nhân được hiệu chỉnh liều vancomycin thông qua nồng độ thuốc trong máu theo AUC tại Bệnh viện Bạch Mai (SV. Trần Đan Khuê)
Qua phân tích đặc điểm biến cố trên thận và các yếu tố nguy cơ liên quan tới biến cố trên thận sau khi triển khai quy trình TDM vancomycin dựa trên AUC theo ước đoán Bayes trên 622 bệnh nhân người lớn tại Bệnh viện Bạch Mai trong thời gian từ tháng 10/2021 đến tháng 12/2022, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
- Tỷ lệ xuất hiện biến cố trên thận là 5,1%, thời gian từ khi bắt đầu dùng thuốc đến khi xuất hiện biến cố có trung vị là 6,5 ngày. Khi phân loại mức độ độc tính trên thận theo RIFLE, tỷ lệ bệnh nhân theo từng mức độ nguy cơ, tổn thương, suy lần lượt là 40,6%, 31,2% và 28,1%.
- Bệnh nhân có độ thanh thải creatinin nền lớn hơn 60 mL/phút có nguy cơ gặp biến cố trên thận với tỷ số nguy cơ HR 2.60 (95% CI 1.23 - 5.53) so với bệnh nhân có độ thanh thải nền dưới 60 mL/phút.
- Bệnh nhân có giá trị AUC trung bình trên 600 mg.h/L có nguy cơ gặp biến cố trên thận cao hơn so với bệnh nhân có AUC trung bình dưới 600 mg.h/L với tỷ số nguy cơ HR 14.24 (KTC 96% 5.96 - 34.04)
📕 Phân tích dược động học quần thể ứng dụng trong tối ưu chế độ liều vancomycin trên bệnh nhân phẫu thuật thần kinh tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức (SV. Hoàng Hải Linh)
Tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, nhóm tác giả ghi nhận 88 bệnh nhân phẫu thuật thần kinh với 130 mẫu định lượng nồng độ vancomycin trong máu. 4 mô hình có yếu tố ảnh hưởng phù hợp với dữ liệu bệnh nhân đã thu thập được tiến hành thẩm định.
- Khả năng đạt đích liên quan đến hiệu quả AUC24h ≥ 400 mg.h/L giảm dần theo chức năng thận, mức liều đảm bảo đạt trên 90% khả năng đạt đích ở từng nhóm chức năng thận đều cao hơn so với mức liều khuyến cáo tương ứng trong Hướng dẫn của Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.
- Khả năng đạt đích liên quan đến độc tính AUC24h < 600 mg.h/L của các mức liều đảm bảo hiệu quả điều trị đều thấp (dưới 50%).
📕 Ứng dụng dược động học quần thể trong tối ưu chế độ liều vancomycin trên bệnh nhân hồi sức tích cực tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức (SV. Nguyễn Thị Hồng Hảo)
Qua ghi nhận và ứng dụng dược động học quần thể của vancomycin trên 45 bệnh nhân sử dụng vancomycin với tổng cộng 58 mẫu định lương, nhóm tác giả rút ra một số kết luận như sau:
- Nghiên cứu đã ghi nhận 9 nghiên cứu đưa vào tổng quan hệ thống. Cỡ mẫu trong các nghiên cứu nhìn chung tương đối lớn và đặc điểm tuổi, cân nặng khá tương đồng, thanh thải creatinine dao động lớn giữa các quần thể nghiên cứu. Đa phần các nghiên cứu đều áp dụng chương trình lấy mẫu thưa (7/9) mô hình và định lượng vancomycin theo phương pháp miễn dịch (9/9)
- Mức liều cho tỷ lệ đạt đích AUC24h ≥400mg.h/L trên 90% đều cho tỷ lệ đạt đích liên quan đến độc tính AUC24h ≤600mg.h/L tương đối thấp (dưới 50%).
📕 Phân tích khả năng ước đoán nồng độ amikacin trong máu bằng phương pháp Bayesian trên bệnh nhân điều trị tại Trung tâm Hồi sức tích cực - Bệnh viện Bạch Mai (SV. Nguyễn Thị Hồng Ngọc)
Qua bước đầu đánh giá tính phù hợp và khả năng ước đoán của mô hình dược động học quần thể amikacin trên 121 bệnh nhân tại Trung tâm HSTC – Bệnh viện Bạch Mai, nhóm tác giả rút ra được một số kết luận sau:
- Kết quả thẩm định ngoại năm mô hình dược động học quần thể amikacin đã lựa chọn trên bệnh nhân ICU cho thấy mô hình Nguyễn Hoàng Anh (B) (2021) và Carrié C (2020) là phù hợp nhất với quần thể bệnh nhân điều trị tại Trung tâm HSTC – Bệnh viện Bạch Mai. Đây là hai mô hình được lựa chọn để đánh giá khả năng ước đoán nồng độ amikacin
− Khả năng ước đoán nồng độ đỉnh (Cpeak) dựa trên ước đoán Bayesian một điểm nồng độ tương đối tốt cho cả hai mô hình Nguyễn Hoàng Anh (B) và Carrie C với rBias lần lượt là 8,75%, 6,55% và rRMSE đều khoảng 30%. Dựa vào nồng độ Cpeak ước đoán theo hai mô hình popPK, quyết định lâm sàng hiệu chỉnh chế độ liều để đảm bảo đích Cpeak sẽ tương đồng trên 80% với việc dựa trên nồng độ Cpeak thực đo.
− Nồng độ đáy ước đoán theo hai phương pháp Bayesian hai điểm nồng độ và phương trình dược động học bậc một có sự khác biệt đáng kể, trong đó, Ctrough ước đoán theo phương pháp Bayesian hai điểm nồng độ có xu hướng cao hơn Ctrough ước đoán theo phương trình dược động học bậc một. Cụ thể, so với Ctrough ước đoán theo phương trình dược động học bậc một, Ctrough ước đoán theo mô hình Nguyễn Hoàng Anh (B) và Carrie C cho giá trị Bias lần lượt là 0,71; 1,42 mg/L và RMSE khoảng 3 – 3,3 mg/L.
👉Link các kết quả nghiên cứu: http://canhgiacduoc.org.vn/DAOTAONC/NghienCuu.aspx
-----------------------------
☎ Hotline: 096 784 0060
🌐 Website: https://n2tp.com/
https://www.frontiersin.org/articles/10.3389/fphar.2022.1023704/full?&utm_source=Email_to_authors_&utm_medium=Email&utm_content=T1_11.5e1_author&utm_campaign=Email_publication&field=&journalName=Frontiers_in_Pharmacology&id=1023704