18/08/2025
TỪ NGỮ Y HỌC CỔ TRUYỀN
Nhiều bạn đồng nghiệp ở miền núi, hoặc người dân chưa hiểu rõ thuốc Nam, Bắc… Các bạn đã biết xin bỏ qua.
- Thuốc Bắc: người xưa lấy địa lý làm cơ sở để phân biệt quốc gia, vùng miền. Nước Bắc (Bắc Quốc) là nói đến nước Trung Quốc (giặc phương Bắc). Nên thuốc Bắc là thuốc của Trung Quốc. TQ có nhiều cây thuốc hơn VN. Một số vị ta cũng có, hoặc TQ nhập từ nước khác, ta nhập lại cũng gọi thuốc Bắc (như Sâm Cao Ly…).
- Thuốc Nam: cây thuốc mọc trên nước Nam ta (Việt Nam) gọi là thuốc Nam. Cụ Trần Bình Trọng khi bị giặc bắt, giặc chiêu hàng, cụ đã khảng khái nói: “Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc”.
- Thuốc Nam 2: khi học thuốc, đọc sách… ta hay gặp những vị thuốc như: Nam Hoàng Bá (hoàng bá Nam), Nam Sài Hồ, Nam Ngưu Tất, Nam Độc Hoạt, Nam Sâm… nguyên nhân là khi không nhập được thuốc Bắc (do khó khăn, do chiến tranh…) nên VN nghiên cứu, tổng hợp từ kinh nghiệm của các thày thuốc trên toàn quốc, để tìm những vị thuốc Nam thay thế khi chữa bệnh. Nhưng chỉ thay thế được 1 số trường hợp nhất định, vì hoạt chất khác nhau hoàn toàn. Thời gian này các thày thuốc trên toàn quốc giải nghệ rất nhiều, do không có thuốc Bắc để trị những bệnh nặng, khó.
- Đông Y: nền y học của các nước phía Đông bán cầu, ý nói khu vực Châu Á (gồm TQ, VN…).
- Y học cổ truyền: tất cả các phương pháp chữa bệnh từ xa xưa truyền lại, được gọi là YHCT.
- Y học dân gian: là những phương pháp chữa bệnh được phổ biến trong dân gian, hầu như nhân dân đều biết. Ví dụ: trẻ em rôm xảy, mẩn ngứa thì dùng Kim Ngân, Sài Đất đun nước tắm; Cảm lạnh (sốt nhưng sợ lạnh) thì nấu nước lá xông cảm, hoặc ăn cháo lá Hành+Tía Tô để giải cảm; Tịt mũi thì đốt quả Bồ Kết cho ngửi; Trừ Âm Tà Tử Khí dùng lá Trầu Không vò nát xoa, hoặc đun tắm; Giải rượu thì dùng hoa Sắn Dây; Tiêu chảy, kiết lỵ thì dùng lá Mơ Lông; Giun kim dùng rau Sam…
- Thuốc Nam gia truyền: do gia đình truyền lại nhiều đời, hoặc học qua thày thuốc làm gia truyền, chuyên về cây thuốc Nam (đồng bằng, miền núi…). Phương pháp chữa bệnh này chủ yếu do kinh nghiệm, phạm vi chữa bệnh hẹp, giống y học dân gian, nhưng tốt hơn.
- Thuốc Bắc gia truyền: do gia đình truyền lại, hoặc học của thày thuốc gia truyền. Chuyên dùng thuốc Bắc và cả thuốc Nam. Chủ yếu chữa theo kinh nghiệm, phạm vi chữa bệnh hẹp. Do ngày trước sách vở ít, nên thường dấu bớt vị thuốc… nên đời sau khó giỏi, cũng giống thuốc Nam gia truyền ở trên, nhưng mạnh hơn do dùng thuốc Bắc.
- Đông Y gia truyền: phương pháp này chủ yếu từ TQ truyền sang. Có cơ sở lý luận, phương pháp khám, chữa bệnh, cách dùng dược vị… gia giảm, sáng tạo… nên phạm vi chữa bệnh rộng hơn. Nhưng vẫn dừng lại ở gia truyền (hẹp).
- Đông Y gia truyền được phổ cập hoặc học ở trường Y nhưng nghiên cứu chuyên sâu, hoặc gia đình cũng hành nghề: có phương pháp chẩn đoán bệnh, khám bệnh, chữa bệnh… Lại được học thêm về Bệnh Học Đông Y và phân tích về bệnh học Tây Y nên độ hiểu biết sẽ rộng hơn, phạm vi chữa bệnh cao nhất. Ở trình độ cao có thể sáng chế ra nhiều bài thuốc chữa bệnh hữu hiệu.
- Học Đông Y ở trường, nhưng lại làm kiểu gia truyền: có rất nhiều bạn học YHCT ở các trường chuyên YHCT, nhưng khi về làm lại theo kiểu gia truyền, tức là làm theo “Cổ phương gia giảm”. Cách chữa bệnh này giống kiểu Tây Y: cứ đau lưng, thoái hóa là dùng bài Độc Hoạt Tang Ký sinh gia giảm để chữa.
Do từ ngữ YHCT đều xuất phát từ TQ, lại là từ cổ, nên khó hiểu, lại thiếu kiến thức thực tế nên cứ làm theo sách vở, hoặc theo cách hiểu của mình, nên phạm vi chữa bệnh rất hẹp, hiệu quả thấp. Rồi tìm đủ mọi phương pháp chữa bệnh cũ, mới, sưu tầm càng nhiều sách vở, vị thuốc, cây thuốc, bài thuốc… càng tốt. Nhưng cuối cùng vẫn không vượt qua gia truyền.
- Đông Y tổng hợp: mỗi một phương pháp đều có ưu và khuyết, nên cần bổ khuyết cho nhau, vì vậy học ĐY (cắt thuốc) cần phải học thêm Châm Cứu thì sẽ tốt hơn, sự hiểu biết sẽ cao hơn, chữa được nhiều ca bệnh khó. Ngược lại, học Châm Cứu cần phải học lý luận cơ bản về ĐY mới giỏi được. Bấm huyệt cũng vậy.
Ví dụ 1: phương pháp châm Xuyên huyệt (kim dài) là sự bế tắc của châm cứu.
Ví dụ 2: nếu gặp người già yếu thể Thận Dương Hư (đau lưng, mỏi gối, chân tay lạnh…) ta có thể Châm Cứu theo bài “Bát Vị Địa Hoàng Hoàn” rất hay. Hoặc 1 người đàn ông trung-cao tuổi, bị phì đại tiền liệt tuyến thể Thận Dương Hư, ta châm theo bài “Ngưu Xa Thận Khí Hoàn” rất kiến hiệu.
Ví dụ 3: gặp ca mắc rất nhiều bệnh phức tạp, Hàn Nhiệt lẫn lộn, ta Châm Cứu hay hơn. Nếu cắt thuốc thì phải dùng Phép: Tiêu Bản Hoãn Cấp. Như: bị đau do thoái hóa xương khớp, cột sống thể Hư Hàn, nhưng do uống nhiều thuốc Tây nên bị viêm xung huyết phù nề dạ dày, đi ngoài nhiều lần, nóng hậu môn, phân lỏng nát hoặc sệt: Ta Châm cứu hay hơn, vì nếu dùng thuốc ĐY có vị cay nóng, chứa tinh dầu sẽ khó chịu vô cùng (độc hoạt, khương hoạt, kiện, tế tân…). Nếu dùng thuốc Thanh Nhiệt Táo Thấp để chữa dạ dày, ruột thì xương khớp càng đau tăng. Thể này phải điều hòa thành tính bình mới được, nhưng Châm Cứu thì tha hồ mà Bổ Tả lại nhanh đỡ, khỏi.
- Ưu nhược điểm của thuốc Nam: chữa bệnh Cấp tính (mới mắc) rất tuyệt vời, nhanh đỡ khỏi. Nếu dùng tươi càng nhanh. Cũng chữa được 1 số trường hợp mãn tính (nhiều tháng, năm), nhưng ít. Chủ yếu là Thuốc Tả, tác dụng Bổ ít. Thuốc Bổ: Hà Thủ Ô đỏ, trắng; Ba Kích; Tang Thầm; Hoàng Tinh (hoa trắng và lá mọc vòng), Kê Huyết Đằng (các loại), Cẩu Tích, Cốt Toái Bổ, Mạch Môn, Thiên Môn, Thạch Hộc, Nam Đảng Sâm (họ hoa chuông), Sâm Trâu, (sâm sắn) Tiên Mao (sâm cau đen). Còn Ngũ Gia Bì (các loại), Đinh Lăng… dược lực yếu.
- Ưu nhược điểm của thuốc Bắc: đa dạng và phong phú, dược lực mạnh, thuốc Bổ cũng nhiều loại. Nếu Chẩn Đoán chính xác, dụng pháp, phương đúng thì bệnh lâu cũng nhanh đỡ, khỏi. Nhưng dùng không đúng sẽ phản tác dụng, hóa điên cuồng, thậm chí nguy vong, do dược tính nhanh và mạnh (Nhiệt gặp Nhiệt tắc Cuồng, Hàn ngộ Hàn tắc Tử). Nên cần học kỹ các lý luận cơ bản cho thuần thục, nghiên cứu sâu… mới thành công.
- Đa Thư Loạn Mục (nhiều sách vở quá, không biết chon lựa): lúc mới vào nghề, hầu như ai cũng muốn sưu tầm được nhiều sách thuốc, nhiều bài thuốc càng tốt. Khi gặp thì mang ra áp dụng, khổ nỗi dùng mà không thấy tác dụng. Đổi nhiều bài khác cũng vậy, nản rồi muốn bỏ nghề. Có nhiều trường hợp mới chữa thì nhiều bệnh nhân đỡ, khỏi. Sau đéo chữa không hiệu quả. Ví dụ: có người tổng kết chữa tiểu đường bằng 1 trong các cách sau: nước từ thân cây chuối; lá Lược vàng; lá cây Lô Hội; lá ổi, vỏ lá soài, quả Điều đỏ… nhiều người áp dụng mà không thấy tác dụng. Bởi đó là truyền miệng, làm nghề ĐY phải theo lý luận của ĐY mới hiệu quả.
- Hiện đại thì hại điện: ĐY đạt được nhiều bước tiến mới trong chữa bệnh, nhất là TQ. Các nghiên cứu này có số ít là hiệu quả, còn lại là ít tác dụng. Ví dụ: dùng máy điện châm có thể châm được cho rất nhiều người, châm tay thì chỉ được ít người; Máy đo kinh lạc, máy cảm ứng nắm tay… để chẩn đoán, thay cho Tứ Chẩn, nhưng không giúp người thày thuốc có trình độ cao hơn, hiệu quả rất thấp; Cấy chỉ cũng thế, hiệu năng thấp… Vì không đúng với các phương pháp của ĐY.
- Đơn giản để thành công: bạn càng phức tạp hóa vấn đề bạn càng thất bại. Có bạn chia sẻ cách bắt mạch trong “Y Gian Đạo” tác giả không thể bắt mạch được, sau đó luyện khí công thì bắt mạch được. Việc này chỉ có tác giả làm được, người khác không làm theo được, mà đó cũng là tối kiến. Có người lại dạy bắt mạch là luyện “bắt” vài dòng nước chảy hoặc dây thả Diều… đó toàn những sự tối kiến. Đáng lẽ học bắt mạch trực tiếp trên người sẽ có kinh nghiệm, đây lại bắt học thêm 1 cái chẳng liên quan, càng làm rối người học. Thậm chí người dạy cũng chẳng biết gì. Hãy đơn giản hóa vấn đề sẽ dễ học, dễ hiểu. Dạy để người học thấp (cỡ tiểu học) cũng hiểu được, làm được, vậy mới là thày giỏi. Giống như giáo viên giỏi là giáo viên dạy cho học sinh bị hổng kiến thức (mất gốc) thành học sinh khá giỏi.
• Lời kết:
- Thiết Chẩn: làm thày thuốc ĐY phải biết Tứ Chẩn, trong đó phải biết Thiết Chẩn, nếu không biết Thiết Chẩn dễ mắc sai lầm trong điều trị, dù làm nghề cả đời nhưng không thể khá, giỏi được.
- Dược tính: bạn phải nắm rõ tính năng dược vị của từng cây thuốc, vị thuốc mà mình dùng (tính, vị, quy kinh, tác dụng, dùng chữa). Như vậy mới giỏi được.
- Học Thuyết Âm Dương, Ngũ Hành rất ít người áp dụng, vì chưa hiểu hết bí quyết về nó. Ở trình độ cao, chỉ áp dụng 2 học thuyết này, thì sáng chế ra nhiều bài thuốc có hiệu quả rất cao trong điều trị, nhất là những bệnh phức tạp, khó, nặng.
- Đông Y khác Tây Y: Tây Y như các món ăn nhanh đã chuẩn bị sẵn (Hampurger, pizza, San Uchs…). Còn Đông Y tự chế biến đa dạng các món ăn vậy: bài thuốc đơn giản chữa bệnh cấp tính như món thịt luộc, hấp vậy; Bài chữa bệnh mãn, phức tạp như món ngon đãi khách, chế biến cầu kỳ, nhiều phụ gia, gia vị… Nói cách khác: bạn chơi cờ tướng thì phải theo luật của cờ tướng, bạn không thể chơi cờ tướng theo kiểu cờ Vây hoặc cờ Vua được.
Bắc Kạn 18/8/2025
Vũ Thủy
Send a message to learn more