Bài Thuốc Gia Truyền Của Bắc Kạn

Bài Thuốc Gia Truyền Của Bắc Kạn Đặc trị các bệnh thoái hóa cột sống, thoát vị đĩa đệm, cùng hóa, suy tim, h?

CHỮA SUY THẬN kèm GÚT MÃN• Tâm Giao: Anh hơn Thủy 11 tuổi, anh vừa là đồng môn, vừa là đồng nghiệp của Thủy. Nhà anh các...
12/09/2025

CHỮA SUY THẬN kèm GÚT MÃN
• Tâm Giao:
Anh hơn Thủy 11 tuổi, anh vừa là đồng môn, vừa là đồng nghiệp của Thủy. Nhà anh cách nơi Thủy hơn 100m.
Cách đây hơn 10 năm, đang độ Đông Hàn, anh đến chỗ Thủy chơi, nhờ Thủy bắt mạch. Do anh có uống rượu nên không bắt mạch, Thủy thấy mặt anh trắng bủng, liền sờ 2 tai của anh, tai rất lạnh. Thủy bảo: anh bị lạnh chân tay về mùa đông… Đây cũng là dấu hiệu dễ có nguy cơ suy thận nếu gặp yếu tố bất lợi. Thực tế những người có sức khỏe yếu, khi gặp tác nhân xấu (dùng thuốc kháng viêm, giảm đau dài ngày hoặc liều cao) thường dễ bị suy thận. Ngoài nguy cơ suy thận cũng hay bị các bệnh lặt vặt khác (viêm họng, xoang, đau mỏi vai gáy, tê bì chân tay….). Theo Đông Y, thì Thận khai khiếu ra tai. Nên tai lạnh tức Thận Hỏa (Mệnh Môn Hỏa) đã bị Hư (yếu).
Thủy cũng là người cố vấn soạn thảo giúp anh 3 bài thuốc để Thẩm định. Cả 3 bài đều ok, chỉ 1 bài phải sửa lại tên để tránh nhầm lẫn. Thủy cũng là người khuyên anh đoạn tuyệt với rượu, bởi mỗi lần anh uống nhiều sẽ không còn chủ động được lời nói. Anh làm theo lời Thủy.
(xin nói thêm: Thủy nhận cải tiến, soạn thảo, nghiên cứu và chuyển giao các bài thuốc hiệu quả cao , cho các đồng nghiệp, phòng khám ĐY, cty…).
• Bụt Chùa Nhà Không Thiêng:
Anh bị Suy Thận độ 1-2 (lúc tăng lúc giảm). Có tư vấn Thủy, vì anh có điều kiện, nên Thủy khuyên nên xuống Bv TƯ để chữa. Sau này mới biết anh bị bệnh Gút, có mua thuốc Hoàn chữa gút (do bọn bất lương trộn thuốc kháng viêm, giảm đau Tây y với liều gấp mấy lần chỉ định của Bs) về uống, rồi bị suy thận như trên. Anh dấu thông tin, dù biết em Thủy chuyên món Gút, nhưng có lẽ do chưa đủ độ tin cậy, nên dùng thuốc của nhiều thày khác.
Sau khi bị suy thận, lại uống tiếp thuốc ĐY của 1 số thày khác, nhưng vấn đề vẫn không giải quyết được. Anh cũng đến tư vấn và tham khảo lấy thuốc, nhưng Thủy đều khuyên xuống Bv TƯ chữa, nếu không ổn thì Thủy sẽ chữa.
Bv TƯ truyền Đạm để chữa suy thận, thì Gút lại tăng lên, đau đớn vật vã. Ban đầu Suy Thận có giảm gần mức cho phép. Nhưng rồi dù dùng Đạm nhưng bệnh suy thận vẫn cứ tăng dần, dù tuân thủ lời dặn của Bs…
• Vòng Tuần Hoàn Bất Tận:
Việc dùng Đạm để chữa người suy thận kèm bệnh gút, là con dao 2 lưỡi. Suy thận giảm thì bệnh Gút lại tăng. Lại uống thuốc Gút, thì suy thận lại tăng, lại dùng Đạm, gút lại tăng… cứ 1 vòng luẩn quẩn như bệnh Tiểu đêm và mất ngủ vậy: tiểu đêm nhiều thì mất ngủ, mất ngủ lại gây tiểu đêm, cứ vậy tuần hoàn cho đến khi người bệnh kiệt sức cũng không thôi...
• Bất Quá Tam:
Anh mang kết quả xét nghiệm máu đến than thở với Thủy. Bệnh tình cứ tăng dần, dù dùng Đạm theo chỉ định của bác sĩ. Hiện giờ tăng cả 3 chỉ số: Men Gan, Acid Uric, Creatinin. Còn bị phù thũng 2 chân, đau gút…
Xét nghiệm tiếp ở Bv khác: men gan tăng nhẹ, Gút bình thường, Creatinin tăng, Suy Thượng Thận.
Anh luôn mang xét nghiệm đến chỗ Thủy để nghe lời khuyên và muốn lấy thuốc. Vậy là đã quá số lần “Tam Cố Thảo Lư” nên Thủy nhận chữa.
• Buồn Lòng:
Sau đó anh siêu âm tiếp (không mang kết quả), đến lấy thuốc, anh hỏi 1 câu làm Thủy buồn lòng: “Thế chú đã chữa cho ai chưa?”.
Thủy buồn đáp: “Em chưa chữa bệnh cho ai cả, chỉ ngồi chơi hàng chục năm nay thôi anh ạ”.
Anh lại buột miệng nói ra: “giờ về cho Bs xem kết quả rồi chữa suy thượng thận”.
Thủy phản ứng ngay: “Anh suy thận là do uống thuốc ĐY trộn thuốc Tây Y. Nếu chữa Tây y thì thôi dùng thuốc của em. Nếu dùng thuốc của em, thì không được dùng bất cứ loại thuốc gì thêm. Mà anh thừa biết Tây Y không có thuốc gì chữa suy thận và suy thượng thận, còn cố chữa làm gì, 2 năm chưa đủ sao.”
Anh lại nhỏ nhẹ: “Bệnh này Bs cấm không cho uống thuốc ĐY đâu”.
“Vậy thì lại xuống dưới Trung Ương vậy!” Thủy cũng nhỏ nhẹ.
Anh nhất trí không dùng thuốc Tây nữa.
Những lời anh nói như kim châm, muối sát vào tâm can Thủy. Vì biết anh thật thà nên Thủy không để tâm, dù rất khái tính.
Cắt thuốc rồi dặn dò kỹ “Tuy là anh, đồng môn (học lớp sau), đồng nghiệp, thân quen, nhưng đã lấy thuốc của em thì là bệnh nhân, phải tuyệt đối tuân theo y lệnh. Cấm tất cả các loại thuốc, hoa quả, rau xanh, rượu bia, tập thể dục, thể thao. Ăn uống theo em dặn”. Tuy vậy, anh cũng lơ là kiêng cữ lắm (qua xét nghiệm và triệu chứng là biết).
Sáng ngày 09/8/2025 lấy thuốc uống. Ngày 24/8/2025 ra báo kết quả xét nghiệm Trung tâm y tế BK, báo sắc thang thứ 6. Dự tính đến ngày 07/9/2025 là hết thuốc. Ăn mừng lễ 2/9 và rằm tháng bảy, nên có ăn nhiều thịt đỏ, nên chỉ số Acid tăng, anh nói như vậy, nên Thủy cũng thông cảm, dù không được như ý.
• Kết quả:
Có 2 kết quả xét nghiệm
- Trung Tâm Y Tế Bắc Kạn: sau 16 ngày uống thuốc, các chỉ số đều giảm (suy thượng thận không xét nghiệm).
- MEDLATEC: sau 1 tháng uống thuốc, các chỉ số suy thận (ure, creatinin) đều giảm rõ rệt. Men gan giảm (men gan GGT lần trước không xét nghiệm). Suy thượng thận giảm rõ rệt. Chỉ số gút tăng do ăn uống ngày 02/9 và rằm tháng 7 (âm lịch), anh cũng thú nhận, nên thông cảm.
Bảng so sánh trước và sau khi uống thuốc 15 ngày
Trung Tâm Y Tế
Xét nghiệm 24/7/2025 22/8/2-25 Chỉ số bt Kết quả
ALT 69 57

25/08/2025

BÍ MẬT TRONG BÀI THUỐC

Có bạn thắc mắc hỏi: “Em chỉ nghe nói rằng Lương Y như Lương Tướng, có thấy Lương Y như Đầu Bếp Giỏi đâu anh…”

Có nhiều vị thuốc cần phải bào chế mới có tác dụng tốt. Các bào chế, cách sao tẩm… cũng rất quan trọng. Tương tự như ta nấu món ăn vậy, nấu khóe thì ngon, nấu không đúng sẽ không được ngon:

1. Bài Lục Vị Địa Hoàng Hoàn: đa số nhiều người xác định chỉ có 6 vị. Nhưng có thày 6 vị, có thày dùng 9 vị, có thày lại dùng 10 vị… Bởi:
- Thục Địa nấu chín không sao tẩm thêm, mục đích chuyên Bổ Âm Thủy, hoặc vừa Bổ Âm Thủy lại Tả Hỏa. Tất cả các vị khác đều dùng sống, nên chỉ có 6 vị.
- Thục Địa cửu chưng, cửu sái với Rượu, Gừng, Sa Nhân. Vậy là 9 vị rồi. Nếu Hoài sơn hấp với cơm thì là 10 vị. Trạch Tả tẩm nước muối nhạt sao vàng thì là 11 vị…
- Thủy nhiều khi dùng cả Thục có rượu, gừng, sa nhân và cả Thục nấu 1 mình. Thục không tẩm gì dùng cho chứng Hỏa trội, dù dùng 1 vị Thục cũng không nê trệ. Còn người có Âm Chứng, Trung Tiêu Hư Hàn thì dùng Thục Tửu Sa Khương.
- Nếu Thục Địa nấu thiếu lửa, ăn sẽ thấy trong lõi sồn sột, tức vẫn còn sống, chưa đủ lửa, chưa được gọi là Thục (Thục là nấu chín nhừ cả ngoài lẫn trong). Như vậy giống đầu bếp nấu dở.

2. Đại Hồi: có 2 cách chế
- Đun nồi nước đến khi sôi, cho Hoa Hồi tươi vào nhúng khoảng 3-5 phút thì vớt ra, đẻ ráo nước, rồi phơi nắng. Hoa nở lộ hạt và màu cũng đẹp, giảm bớt độc.
- Đun nồi nước đến khi sôi mạnh, để lên đồ 5-7 phút, khi bắt đầu thấy mùi thơm, thì bỏ ra để ráo nước, phơi nắng. Nhìn cánh hoa và màu cũng rất đẹp, lại bớt độc. Cách này hay hơn cả.
- Nếu phơi nắng luôn từ lúc hoa còn tươi, màu sẽ xỉn, cánh hoa cong queo, teo tóp, nhìn rất xấu, độc vẫn còn nhiều.

3. Trần Bì: vỏ quýt để từ 7 năm trở lên mới gọi Trần Bì. Mỗi năm đem phơi nắng 1 lần, chống ẩm mốc. Từ 3 năm trở đi màu vỏ sẽ chuyển sang đen, mùi thơm dễ chịu. Khi dùng để sống hoặc sao với trấu cho vàng, thơm. Khi dùng để Hành Khí Trung Tiêu, rất dễ uống, khoan khoái trọng bụng. Để sống và vỏ mới thu hái dùng cũng được, nhưng sau khi uống có cảm giác cuộn cuộn trong bụng, hơi có cảm giác khó chịu. Có thày còn cẩn thận bóc bỏ xơ trắng bên trong, để chữa bệnh ở Phế.

4. Bán Hạ: Bắc, Nam như nhau.
- Do Bán Hạ uống sống, nếm tươi cay ngứa tụt lưỡi, rất khó chịu, nên 1 số nơi như Tuyên Quang gọi là “Cây Đốt Lưỡi”. Ở VN hay dùng Cam Thảo hoặc Nước Gừng, có khi dùng cả 2. Vừa giảm ngứa, giảm độ độc, lại Ôn Phế (ấm phổi) và Chỉ Khái (ngừng ho).
- Bán Hạ để lâu năm càng tốt, mỗi năm lại phơi nắng 1 lần để tránh ẩm mốc. Lúc cần dùng thì chế với Gừng hoặc Cam Thảo hoặc cả 2. Đun sắc đặc nước gừng, cam thảo, cho Bán Hạ vào đun đến khi cạn, đảo xóc đều khi gần cạn. Xong phơi, sấy khô.
- Chế với nước vôi trong, mục đích để chống háo khát trong bệnh Phế Nhiệt, lại giảm độ độc. Sau đó nấu với nước Cam Thảo. Cách này giờ không dùng, vì chữa bệnh ở Phế (hay bất cứ tạng khác) cần xử lý tất cả các triệu chứng rồi còn cần gì nữa.

5. Viễn Chí: do có vị cay, tê, khó chịu khi nếm, uống sống còn buồn nôn, nôn mửa, chịt họng… nên cần chế với nước Cam Thảo và Gừng. Sắc đặc 2 thứ trên, cho Viễn Chí vào nấu đến khi cạn, xóc đảo đều tranh bị khê. Cũng có thể chỉ chế với nước Cam thảo hoặc riêng với nước gừng.

6. Thỏ Ty Tử: dùng tong bài an thai, thì tẩm rượu 1 đêm, đảo đều, rồi sao vàng thơm. Để bổ thận thì tẩm nước muối nhạt sao vàng thơm.

7. Đỗ Trọng: có khi dùng sống, sao đứt tơ hoặc dùng sống lượng nhiều để Hạ Huyết Áp. Để bổ thận và dùng cho người Huyết Áp Thấp thì tẩm nước muối nhạt sao vừa sun lại.

8. Nhân Sâm: sắc với lửa nhỏ, dùng nồi Điện Nấu Chậm sắc nấc số 1 rất tốt (nồi kho cá điện). Dùng cho người Huyết Áp Thấp, cơ thể lạnh… thì sắc với Gừng tươi đập dập hoặc Gừng khô cũng được. Như vậy sức mạnh của thuốc tăng lên gấp bội phần (cấp số cộng hoặc nhân).

9. Thán: tức là sao cháy đen. Sao với lửa lớn đến khi gần sém đen thì hạ lửa, để vị thuốc không bùng lửa kém chất lượng. Cháy thành than (màu đen) khác với cháy thành tro (màu xám trắng).
Vân vân

Tóm lại:
- Để sao, chế nếu nấu trực tiếp thì dùng lửa nhỏ, lửa vừa.
- Để đồ (nấu cách thủy) thì dùng lửa to.
- Sao cháy đen thì dùng lửa to.
- Thao tác của tay cũng phải đảo đều, xóc… liên tục cho đều.
- Việc sao, chế để giảm chất độc (nếu có) và tăng hoạt tính của vị thuốc. Như vậy là công việc Đầu bếp rồi còn gì.
- Phần Tẩm nước thuốc cũng được tính lá 1 vị. Vì thiếu nó tác dụng yếu đi rất nhiều, còn độc hại, hoặc tác dụng ngược, gây dị ứng, hen suyễn… Đây cũng là bí mật của bà thuốc, nếu đếm từng vị thì rất ít, nhưng thực ra còn mấy vị ẩn tàng trong đó. Lúc dùng thuốc sống, lúc lại sao, chế… để phù hợp với bệnh chứng.
- Bài thuốc có nhiều vị bào chế sẽ tác dụng tốt hơn, dễ chịu hơn thuốc không được bào chế cẩn thận. Nên nhiều khi dùng cùng 1 bào thuốc mà công hiệu khác nhau, có khi phản tác dụng là thế.
Bắc Kạn 25/8/2025
Vũ Thủy

Send a message to learn more

18/08/2025

TỪ NGỮ Y HỌC CỔ TRUYỀN

Nhiều bạn đồng nghiệp ở miền núi, hoặc người dân chưa hiểu rõ thuốc Nam, Bắc… Các bạn đã biết xin bỏ qua.

- Thuốc Bắc: người xưa lấy địa lý làm cơ sở để phân biệt quốc gia, vùng miền. Nước Bắc (Bắc Quốc) là nói đến nước Trung Quốc (giặc phương Bắc). Nên thuốc Bắc là thuốc của Trung Quốc. TQ có nhiều cây thuốc hơn VN. Một số vị ta cũng có, hoặc TQ nhập từ nước khác, ta nhập lại cũng gọi thuốc Bắc (như Sâm Cao Ly…).

- Thuốc Nam: cây thuốc mọc trên nước Nam ta (Việt Nam) gọi là thuốc Nam. Cụ Trần Bình Trọng khi bị giặc bắt, giặc chiêu hàng, cụ đã khảng khái nói: “Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc”.

- Thuốc Nam 2: khi học thuốc, đọc sách… ta hay gặp những vị thuốc như: Nam Hoàng Bá (hoàng bá Nam), Nam Sài Hồ, Nam Ngưu Tất, Nam Độc Hoạt, Nam Sâm… nguyên nhân là khi không nhập được thuốc Bắc (do khó khăn, do chiến tranh…) nên VN nghiên cứu, tổng hợp từ kinh nghiệm của các thày thuốc trên toàn quốc, để tìm những vị thuốc Nam thay thế khi chữa bệnh. Nhưng chỉ thay thế được 1 số trường hợp nhất định, vì hoạt chất khác nhau hoàn toàn. Thời gian này các thày thuốc trên toàn quốc giải nghệ rất nhiều, do không có thuốc Bắc để trị những bệnh nặng, khó.

- Đông Y: nền y học của các nước phía Đông bán cầu, ý nói khu vực Châu Á (gồm TQ, VN…).

- Y học cổ truyền: tất cả các phương pháp chữa bệnh từ xa xưa truyền lại, được gọi là YHCT.

- Y học dân gian: là những phương pháp chữa bệnh được phổ biến trong dân gian, hầu như nhân dân đều biết. Ví dụ: trẻ em rôm xảy, mẩn ngứa thì dùng Kim Ngân, Sài Đất đun nước tắm; Cảm lạnh (sốt nhưng sợ lạnh) thì nấu nước lá xông cảm, hoặc ăn cháo lá Hành+Tía Tô để giải cảm; Tịt mũi thì đốt quả Bồ Kết cho ngửi; Trừ Âm Tà Tử Khí dùng lá Trầu Không vò nát xoa, hoặc đun tắm; Giải rượu thì dùng hoa Sắn Dây; Tiêu chảy, kiết lỵ thì dùng lá Mơ Lông; Giun kim dùng rau Sam…

- Thuốc Nam gia truyền: do gia đình truyền lại nhiều đời, hoặc học qua thày thuốc làm gia truyền, chuyên về cây thuốc Nam (đồng bằng, miền núi…). Phương pháp chữa bệnh này chủ yếu do kinh nghiệm, phạm vi chữa bệnh hẹp, giống y học dân gian, nhưng tốt hơn.

- Thuốc Bắc gia truyền: do gia đình truyền lại, hoặc học của thày thuốc gia truyền. Chuyên dùng thuốc Bắc và cả thuốc Nam. Chủ yếu chữa theo kinh nghiệm, phạm vi chữa bệnh hẹp. Do ngày trước sách vở ít, nên thường dấu bớt vị thuốc… nên đời sau khó giỏi, cũng giống thuốc Nam gia truyền ở trên, nhưng mạnh hơn do dùng thuốc Bắc.

- Đông Y gia truyền: phương pháp này chủ yếu từ TQ truyền sang. Có cơ sở lý luận, phương pháp khám, chữa bệnh, cách dùng dược vị… gia giảm, sáng tạo… nên phạm vi chữa bệnh rộng hơn. Nhưng vẫn dừng lại ở gia truyền (hẹp).

- Đông Y gia truyền được phổ cập hoặc học ở trường Y nhưng nghiên cứu chuyên sâu, hoặc gia đình cũng hành nghề: có phương pháp chẩn đoán bệnh, khám bệnh, chữa bệnh… Lại được học thêm về Bệnh Học Đông Y và phân tích về bệnh học Tây Y nên độ hiểu biết sẽ rộng hơn, phạm vi chữa bệnh cao nhất. Ở trình độ cao có thể sáng chế ra nhiều bài thuốc chữa bệnh hữu hiệu.

- Học Đông Y ở trường, nhưng lại làm kiểu gia truyền: có rất nhiều bạn học YHCT ở các trường chuyên YHCT, nhưng khi về làm lại theo kiểu gia truyền, tức là làm theo “Cổ phương gia giảm”. Cách chữa bệnh này giống kiểu Tây Y: cứ đau lưng, thoái hóa là dùng bài Độc Hoạt Tang Ký sinh gia giảm để chữa.
Do từ ngữ YHCT đều xuất phát từ TQ, lại là từ cổ, nên khó hiểu, lại thiếu kiến thức thực tế nên cứ làm theo sách vở, hoặc theo cách hiểu của mình, nên phạm vi chữa bệnh rất hẹp, hiệu quả thấp. Rồi tìm đủ mọi phương pháp chữa bệnh cũ, mới, sưu tầm càng nhiều sách vở, vị thuốc, cây thuốc, bài thuốc… càng tốt. Nhưng cuối cùng vẫn không vượt qua gia truyền.

- Đông Y tổng hợp: mỗi một phương pháp đều có ưu và khuyết, nên cần bổ khuyết cho nhau, vì vậy học ĐY (cắt thuốc) cần phải học thêm Châm Cứu thì sẽ tốt hơn, sự hiểu biết sẽ cao hơn, chữa được nhiều ca bệnh khó. Ngược lại, học Châm Cứu cần phải học lý luận cơ bản về ĐY mới giỏi được. Bấm huyệt cũng vậy.
Ví dụ 1: phương pháp châm Xuyên huyệt (kim dài) là sự bế tắc của châm cứu.
Ví dụ 2: nếu gặp người già yếu thể Thận Dương Hư (đau lưng, mỏi gối, chân tay lạnh…) ta có thể Châm Cứu theo bài “Bát Vị Địa Hoàng Hoàn” rất hay. Hoặc 1 người đàn ông trung-cao tuổi, bị phì đại tiền liệt tuyến thể Thận Dương Hư, ta châm theo bài “Ngưu Xa Thận Khí Hoàn” rất kiến hiệu.
Ví dụ 3: gặp ca mắc rất nhiều bệnh phức tạp, Hàn Nhiệt lẫn lộn, ta Châm Cứu hay hơn. Nếu cắt thuốc thì phải dùng Phép: Tiêu Bản Hoãn Cấp. Như: bị đau do thoái hóa xương khớp, cột sống thể Hư Hàn, nhưng do uống nhiều thuốc Tây nên bị viêm xung huyết phù nề dạ dày, đi ngoài nhiều lần, nóng hậu môn, phân lỏng nát hoặc sệt: Ta Châm cứu hay hơn, vì nếu dùng thuốc ĐY có vị cay nóng, chứa tinh dầu sẽ khó chịu vô cùng (độc hoạt, khương hoạt, kiện, tế tân…). Nếu dùng thuốc Thanh Nhiệt Táo Thấp để chữa dạ dày, ruột thì xương khớp càng đau tăng. Thể này phải điều hòa thành tính bình mới được, nhưng Châm Cứu thì tha hồ mà Bổ Tả lại nhanh đỡ, khỏi.

- Ưu nhược điểm của thuốc Nam: chữa bệnh Cấp tính (mới mắc) rất tuyệt vời, nhanh đỡ khỏi. Nếu dùng tươi càng nhanh. Cũng chữa được 1 số trường hợp mãn tính (nhiều tháng, năm), nhưng ít. Chủ yếu là Thuốc Tả, tác dụng Bổ ít. Thuốc Bổ: Hà Thủ Ô đỏ, trắng; Ba Kích; Tang Thầm; Hoàng Tinh (hoa trắng và lá mọc vòng), Kê Huyết Đằng (các loại), Cẩu Tích, Cốt Toái Bổ, Mạch Môn, Thiên Môn, Thạch Hộc, Nam Đảng Sâm (họ hoa chuông), Sâm Trâu, (sâm sắn) Tiên Mao (sâm cau đen). Còn Ngũ Gia Bì (các loại), Đinh Lăng… dược lực yếu.

- Ưu nhược điểm của thuốc Bắc: đa dạng và phong phú, dược lực mạnh, thuốc Bổ cũng nhiều loại. Nếu Chẩn Đoán chính xác, dụng pháp, phương đúng thì bệnh lâu cũng nhanh đỡ, khỏi. Nhưng dùng không đúng sẽ phản tác dụng, hóa điên cuồng, thậm chí nguy vong, do dược tính nhanh và mạnh (Nhiệt gặp Nhiệt tắc Cuồng, Hàn ngộ Hàn tắc Tử). Nên cần học kỹ các lý luận cơ bản cho thuần thục, nghiên cứu sâu… mới thành công.

- Đa Thư Loạn Mục (nhiều sách vở quá, không biết chon lựa): lúc mới vào nghề, hầu như ai cũng muốn sưu tầm được nhiều sách thuốc, nhiều bài thuốc càng tốt. Khi gặp thì mang ra áp dụng, khổ nỗi dùng mà không thấy tác dụng. Đổi nhiều bài khác cũng vậy, nản rồi muốn bỏ nghề. Có nhiều trường hợp mới chữa thì nhiều bệnh nhân đỡ, khỏi. Sau đéo chữa không hiệu quả. Ví dụ: có người tổng kết chữa tiểu đường bằng 1 trong các cách sau: nước từ thân cây chuối; lá Lược vàng; lá cây Lô Hội; lá ổi, vỏ lá soài, quả Điều đỏ… nhiều người áp dụng mà không thấy tác dụng. Bởi đó là truyền miệng, làm nghề ĐY phải theo lý luận của ĐY mới hiệu quả.

- Hiện đại thì hại điện: ĐY đạt được nhiều bước tiến mới trong chữa bệnh, nhất là TQ. Các nghiên cứu này có số ít là hiệu quả, còn lại là ít tác dụng. Ví dụ: dùng máy điện châm có thể châm được cho rất nhiều người, châm tay thì chỉ được ít người; Máy đo kinh lạc, máy cảm ứng nắm tay… để chẩn đoán, thay cho Tứ Chẩn, nhưng không giúp người thày thuốc có trình độ cao hơn, hiệu quả rất thấp; Cấy chỉ cũng thế, hiệu năng thấp… Vì không đúng với các phương pháp của ĐY.

- Đơn giản để thành công: bạn càng phức tạp hóa vấn đề bạn càng thất bại. Có bạn chia sẻ cách bắt mạch trong “Y Gian Đạo” tác giả không thể bắt mạch được, sau đó luyện khí công thì bắt mạch được. Việc này chỉ có tác giả làm được, người khác không làm theo được, mà đó cũng là tối kiến. Có người lại dạy bắt mạch là luyện “bắt” vài dòng nước chảy hoặc dây thả Diều… đó toàn những sự tối kiến. Đáng lẽ học bắt mạch trực tiếp trên người sẽ có kinh nghiệm, đây lại bắt học thêm 1 cái chẳng liên quan, càng làm rối người học. Thậm chí người dạy cũng chẳng biết gì. Hãy đơn giản hóa vấn đề sẽ dễ học, dễ hiểu. Dạy để người học thấp (cỡ tiểu học) cũng hiểu được, làm được, vậy mới là thày giỏi. Giống như giáo viên giỏi là giáo viên dạy cho học sinh bị hổng kiến thức (mất gốc) thành học sinh khá giỏi.

• Lời kết:
- Thiết Chẩn: làm thày thuốc ĐY phải biết Tứ Chẩn, trong đó phải biết Thiết Chẩn, nếu không biết Thiết Chẩn dễ mắc sai lầm trong điều trị, dù làm nghề cả đời nhưng không thể khá, giỏi được.

- Dược tính: bạn phải nắm rõ tính năng dược vị của từng cây thuốc, vị thuốc mà mình dùng (tính, vị, quy kinh, tác dụng, dùng chữa). Như vậy mới giỏi được.

- Học Thuyết Âm Dương, Ngũ Hành rất ít người áp dụng, vì chưa hiểu hết bí quyết về nó. Ở trình độ cao, chỉ áp dụng 2 học thuyết này, thì sáng chế ra nhiều bài thuốc có hiệu quả rất cao trong điều trị, nhất là những bệnh phức tạp, khó, nặng.

- Đông Y khác Tây Y: Tây Y như các món ăn nhanh đã chuẩn bị sẵn (Hampurger, pizza, San Uchs…). Còn Đông Y tự chế biến đa dạng các món ăn vậy: bài thuốc đơn giản chữa bệnh cấp tính như món thịt luộc, hấp vậy; Bài chữa bệnh mãn, phức tạp như món ngon đãi khách, chế biến cầu kỳ, nhiều phụ gia, gia vị… Nói cách khác: bạn chơi cờ tướng thì phải theo luật của cờ tướng, bạn không thể chơi cờ tướng theo kiểu cờ Vây hoặc cờ Vua được.

Bắc Kạn 18/8/2025
Vũ Thủy

Send a message to learn more

Address

28 Nguyễn Văn Tố, Phường Bắc Kạn, Tỉnh Thái Nguyên
Bac Kan

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Bài Thuốc Gia Truyền Của Bắc Kạn posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Practice

Send a message to Bài Thuốc Gia Truyền Của Bắc Kạn:

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram