Chùa Tân Lạc

Chùa Tân Lạc Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha

Vô minh có ba trường hợp: 1.  Biết cái không đáng biết.2.  Không biết cái đáng biết. 3.  Biết không tới nơi tới chốn.Ngà...
25/06/2025

Vô minh có ba trường hợp:

1. Biết cái không đáng biết.

2. Không biết cái đáng biết.

3. Biết không tới nơi tới chốn.

Ngài Sunlun, một Thiền sư của Miến Điện, tương truyền là một vị Thánh, có câu nói mà tôi thấy rất đáng lưu tâm:

- “Nếu thường xuyên suy nghĩ về chuyện đời, không liên hệ đến Phật Pháp thì chỉ gieo Duyên sinh tử mà thôi.”

Mình còn là phàm, khi học Đạo mình hiểu theo trình độ người phàm, nhưng đầu mình thường xuyên nghĩ về Chỉ, Quán, Uẩn, Xứ, Giới, Đế, 37 phẩm Bồ Đề,... thì sự suy nghĩ như vậy gần với giải thoát. Dù đời này không đắc gì hết, nhưng sự suy nghĩ như vậy rút ngắn sinh tử của mình.

Trong khi đó một người tối ngày cứ suy nghĩ vật lộn với miếng cơm manh áo, đồng tiền bát gạo – Có những suy nghĩ liên hệ thế tục nhiều quá – Thì sẽ làm cản trở Tuệ Quán và kéo dài dòng sinh tử của mình nữa.

Sư Giác Nguyên (Toại Khanh)

21/06/2025

"TIỀN NHIỀU ĐỂ LÀM GÌ?"

Người Mỹ có câu rất là hay:
1- Người giàu nhất trên đời không phải là cái gì cũng có mà người giàu nhất là sống được với bất cứ cái gì họ có.
2- Cách làm giàu dễ nhất ai cũng làm được là bớt đi nhu cầu.

Khi bớt đi nhu cầu thì tự nhiên mình không thấy thiếu nữa, khi không thấy thiếu nữa thì mình đã giàu rồi chứ còn gì nữa. Nói theo nghĩa đen cũng đúng mà nghĩa bóng cũng đúng.

Nói theo nghĩa bóng nghĩa là khi mình bớt nhu cầu thì mình sẽ sống bằng tâm trạng của một người giàu, nghĩa là không thèm khát nữa. Trong kinh nói con ngạ quỷ chỉ thèm ăn thèm uống thôi. Nó thèm ăn bởi vì nó đói và thèm uống bởi nó thường xuyên khát, khát cả đời. Nhân loại mình nếu không tu tập thì tệ hơn ngạ quỷ ở chỗ là ngoài thèm ăn, thèm khát chúng ta còn thèm đủ thứ hết. Cho nên, chuyện đầu tiên khi chúng ta bớt đi nhu cầu là chúng ta bớt đi thèm khát. Chúng ta không còn sự mong đợi quá nhiều vào đời sống, vào thiên hạ; không trông mong cái này cái kia nữa thì đó là sống bằng tâm trạng của người giàu.

Nói theo nghĩa đen là khi bớt nhu cầu thì chúng ta sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian, rất nhiều công sức và dĩ nhiên là tiết kiệm được rất nhiều tiền bạc. Bởi vì, Tây có câu:

-Khi anh bỏ tiền ra mua một thứ không cần thì anh đã lấy đi một phần tiền cho những thứ cần thiết.
-Cứ mua thứ không cần thì sẽ có lúc ta phải bán đi thứ ta đang rất cần.

Đức Dalai Lama có một câu nói đáng để chúng ta thuộc lòng: Một trong những điều nghịch lý nhất trên trái đất này là người ta bán đi tuổi trẻ, bán đi sức khỏe để lấy tiền, rồi có lúc lấy tiền để mua lại sức khỏe và tuổi trẻ.

(Những bài giảng Kinh Tăng Chi, tập I – Sư Giác Nguyên)

Sự nghiệp thế gian là: huân tập – tích lũy – chất đống. Nhưng trong Phật Pháp thì tất cả công đ...
07/06/2025

Sự nghiệp thế gian là:
huân tập – tích lũy – chất đống.
Nhưng trong Phật Pháp thì tất cả công đức, kiến thức, trí tuệ, bố thí, thiền định, hạnh lành ...nói chung chỉ sử dụng như những phương tiện, chớ không phải cứu cánh.

Cứu cánh rốt ráo nhất của Đạo Phật, đó là không còn gì để nắm và không còn ý muốn để nắm.
Sự nghiệp lớn nhất của Đạo Phật là không còn sự nghiệp nào hết.

Tu gì không cần biết ..nhưng ngày càng buông bỏ:
buông bỏ sỡ hữu và hiện hữu thì đó mới là tu đúng.
Chuyện cần làm trước mắt đó là...đứng trước cái chết có thể quan niệm rằng:
- Duyên đã đủ, xác đến lúc phải rã;
- Ta là con suối mùa hạ đang chờ cạn khô.
- Ta là người lính bị trọng thương và đang sống bằng những giọt máu cuối cùng.
- Hình hài này chỉ là một bộ xương, một đống thịt chưa rã.
- Hình hài này chỉ là một cái xác chưa chôn..và là cái xác còn ấm.

Hãy luôn tự vấn: “Tôi sẽ làm sao để không còn sợ chết?”.
Khi ta có gan nhìn cái chết đến, thì tất cả thị phi và khoái cảm trong cuộc đời này đều là rác hết.

Cũng có cách khác để bớt sợ chết: bớt nghĩ về mình hoặc không nghĩ về mình, mà nghĩ nhiều về người khác. Sẽ khiến ta có đủ hùng tâm để đối phó với phút giây cận tử cuối đời, và lúc bấy giờ chúng ta mới thật sự là người an toàn bậc nhất hành tinh.

Nghĩ nhiều về người, hoặc bớt nghĩ về mình sẽ giúp ta bớt sợ chết. Sống cả đời chỉ nghĩ đến người ta, thì lúc chết cũng nghĩ đến người khác.
Nghĩ là tại sao mình không còn thời gian để làm chuyện này, để thực hiện chuyện kia cho thiên hạ.

Còn nếu anh sống mà chỉ nghĩ về anh quá, thì sẽ sợ chết kinh khủng ...là vì mấy chục năm trong cuộc đời khói sương này, anh chỉ biết có mỗi mình anh thôi.

Sợ chết là gì?
Là sợ mất cái tôi này, là tiếc những quãng đời đã qua. Quãng đời sắp tới thì không còn sống nữa, không biết cái tôi này sẽ trôi dạt về đâu trong cuộc đời bao la bát ngát muôn trùng này.

Nếu anh sống có lòng nghĩ nhiều về người khác, bớt nghĩ về mình ..thì anh sẽ thấm thía bài học cọng rơm mà tôi thường nói:
Một cọng rơm hay tờ giấy thả từ lầu 10 xuống đất nó không hề hấn gì, vì trọng lượng của nó so với hấp lực của trái đất không đủ để gây ra sự đổ vỡ hư hao nào hết, vì hình dáng của nó không là gì so với hấp lực của trái đất.
Trong khi đó thả một cái chén hoặc con người từ lầu 10 xuống đất, thì sẽ gây ra bao nhiêu chuyện.

Chúng ta tu thiền Tứ Niệm Xứ để biến mình thành cọng rơm.
Mình nhìn mình như là một tờ giấy, một sợi tóc.....!!!

Sư Giác Nguyên giảng

♦️ Cư sỹ: Bạch Thầy. Trong 3 đặc tướng: vô thường (anicca), khổ (dukkha), vô ngã (anattā) thì con có vẻ đã hiểu đôi chút...
25/05/2025

♦️ Cư sỹ: Bạch Thầy. Trong 3 đặc tướng: vô thường (anicca), khổ (dukkha), vô ngã (anattā) thì con có vẻ đã hiểu đôi chút về vô thường và khổ.
Nhưng riêng về vô ngã thì con hoàn toàn chưa hiểu rõ gì cả.
Vì vậy, xin Thầy từ bi giảng giải cho con rõ hơn: “vô ngã” là gì ạ?

✅ Thầy: Này ông. Vì sao ông ăn cơm?

- Dạ, con ăn để không chết ạ

- Ăn để khỏi chết à? Vậy ông ăn vì sợ chết, hay ăn vì đói? Nghĩ cho kỹ rồi hãy trả lời.

- Dạ, vì đói nên con ăn ạ.

- Thế ông đã làm gì để gây ra cái đói đó? Dạ… con không làm gì cả, đến giờ là nó tự đói thôi ạ.

- Tốt lắm. Cũng như thế, những cảm giác như khát nước, buồn ngủ, muốn tiểu tiện đại tiện…tất cả tự phát sinh. Ông không cần phải làm gì để tạo ra những cảm giác ấy, đúng không?

- Dạ, đúng vậy ạ.

- Vậy thì phải hiểu rằng: Các cảm thọ ấy không phải do ta tạo ra, mà tự chúng sinh khởi theo quy luật. Vì thế nên gọi là “vô ngã (anattā)”.

Nếu mọi thứ do chính ta tạo ra, thì phải gọi là “ngã (atta)”, chứ không phải vô ngã.

Khi ông nhìn thấy vật gì đó – ông có biết mình đang thấy không?

- Dạ có ạ.

- Khi nghe âm thanh, ông có biết là mình đang nghe không?

- Dạ có ạ.

- Vậy ông có làm gì để khiến mình biết không?

- Dạ không ạ.

- Tốt. Thấy là biết, nghe là biết - nhưng không cần phải làm gì để “khiến” biết cả. Chúng tự sinh khởi, không do ta tạo nên. Và cũng không do ta diệt trừ.

Chúng sinh ra khi có tiếp xúc giữa đối tượng và căn môn (arammana + dvāra), sinh rồi thì diệt. Tất cả đều là Pháp hữu vi sinh diệt theo nhân duyên.

Và như thế gọi là vô ngã.

🔥Thân của ông bây giờ - tóc đã bạc, răng đã rụng, chẳng phải là dấu hiệu của sự già sao?

- Dạ, đúng ạ.

- Vì không thích già nên ông nhuộm tóc, uống thuốc trẻ hóa… Dù ông có làm cách nào đi nữa,
thì thân này có trẻ lại được không?

- Dạ, không được đâu ạ.

- Vậy thì: Không muốn già, không muốn bệnh, không muốn chết rồi tìm cách chống lại già, bệnh, chết - đó là ý tưởng “có ta” - là “ngã” (atta).
Còn dù làm gì cũng không ngăn được già, bệnh, chết - thì đó là vô ngã (anattā).

Thân thể này - dù muốn hay không - vẫn đi theo lộ trình của già - bệnh - chết. Cuối cùng, thân này cũng phải giao cho thần chết theo cách nói thế gian. Vậy thì thân này không phải là “của ta”,
mà là một Pháp vô ngã.

Tất cả danh - sắc - thân - tâm đều là các Pháp sinh rồi diệt, không bền chắc, biến hoại, phản bội.
Chúng không nên nương tựa, không có giá trị cốt lõi nên gọi là: “A-sāra Anattā” - vô ngã, không cốt lõi.

Tuy nhiên, vẫn có một loại “Sāra Anattā” - vô ngã có cốt lõi - đó chính là Niết-bàn (Nibbāna).

Niết-bàn không phải do ai tạo ra mà tự có sẵn từ trước, không sinh không diệt. Không ai tạo nên, không phải do ai làm ra nên cũng gọi là vô ngã.

Niết-bàn là:
Không sinh, không diệt
Không có khổ
Không có bóng dáng của chúng sinh
nên gọi là “Sāra Anattā” - vô ngã có thực chất.

Tóm lại:
Danh - sắc (tâm - thân) là vô ngã
Niết-bàn cũng là vô ngã
Nhưng danh - sắc là vô ngã sinh diệt
Còn Niết-bàn là vô ngã không sinh diệt.

Vì vậy, Đức Thế Tôn mới dạy:
“Sabbe dhammā anattā” – Tất cả các Pháp đều vô ngã.

Này ông cư sĩ, nếu nghe đến đây mà ông hiểu được vô ngã, thì quả là rất tốt rồi.

- Dạ, con hiểu rồi ạ.

🌟Phước lành này của chúng con, nguyện đoạn trừ các lậu hoặc - trầm luân.

Phước lành này của chúng con, nguyện là duyên thành tựu Niết bàn.

Phần phước của chúng con, xin chia đều đến tất cả sinh linh.

Mong tất cả hãy thọ nhận phần phước ấy được đồng đều nhau cả thảy.

XIN THƯỜNG CHÍ TÂM XƯNG NIỆM NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

🪷TAM PHÁP ẤN TRONG PHẬT GIÁO - KHỔ - VÔ THƯỜNG - VÔ NGÃ.

🍀HÃY THƯỜNG CHIÊM NGHIỆM, MÀ BUÔNG XẢ CHO NHẸ THÂN - TÂM.

HÃY LÀ MỘT LỮ KHÁCH…Thưa quý vị, tôi có kể quý vị nghe hoài một câu chuyện đó là một đêm kia ...
15/05/2025

HÃY LÀ MỘT LỮ KHÁCH…

Thưa quý vị, tôi có kể quý vị nghe hoài một câu chuyện đó là một đêm kia có một vị khách gõ cửa am lá của một vị thiền sư để xin ngủ nhờ qua đêm, thiền sư mở cửa cho ông và trong cái am có một nhà cỏ để chứa củi, vị thiền sư nói là đêm nay ông ngã lưng ở đây cũng được và đưa cho ông khách cái gối và miếng chiếu để ngã lưng trên cỏ mà ngủ. Vị khách trăn trở, vừa lạnh vừa xót xót, mà hơi cấn cấn, cộm cộm, không ngủ được, khuya ổng chịu không thấu nên mới qua gõ cửa thiền sư, hỏi:
- Thầy có gối bố, hay tấm bạt cho tui mượn chớ còn lót như vầy tui nằm không nổi.
- Tui có nhiêu đó thôi - Thiền sư nói.
- Ủa thầy không có giường chỏng gì hết hả? – vị khách hỏi.
- Của ông đâu mà ông không xài? Câu này rất là hay “Của ông đâu không xài mà hỏi tui?”
- Thầy nói chuyện lạ thiệt! Con là khách thì làm gì có mấy món đồ đó ở đây? – vị khách đáp lại.
- Ông có biết không? Bao nhiêu năm qua, tui sống trong cuộc đời này bằng tâm trạng của một người khách thì làm gì chuẩn bị những thứ đó. Tui phải ra đi bất cứ lúc nào y chang ông. Ông đừng có tưởng sáng mai ông xách túi đi là đi một mình ông. Tui cũng vậy, sáng mai mặt trời lên tui cũng xách túi đi như ông, ông có hiểu không? Mục đích đời tu của tôi là cảnh giới đó, không có đắc chứng gì hết nhưng cảnh giới đó có nghĩa là lúc nào cũng là người khách trên đường hết.
Ông khách nghe đãi ngộ và dĩ nhiên thời gian không lâu sau đó trong cái am này có thêm một vị tân thọ tỷ kheo, đó là ông khách. Ông đã ngộ ra chân lý sống của vị thiền sư: “Ồ! thì ra bao nhiêu năm lăn lội trong cuộc đời này, bán buôn, đổi chác, tích luỹ tiền bạc, tích cóp gia tài để làm tròn trách nhiệm của người cha, người chồng, một người gia chủ, gia trưởng cho đã nhưng mình đã quên một chuyện, mình mãi hoài là một người khách mà thôi. Nai cái lưng trâu ngựa, nô lệ ra để hầu thiên hạ rồi cuối cùng mình có thể bị tử thần đến gõ cửa, réo gọi, mời đi bất cứ lúc nào.” Chán quá, ông buông hết đi tu! Sâu là sâu chỗ đó!

Chúng tôi có biết một chuyện, ngài Ajahn Chah – ngài là một vị có nhiều chùa, nhiều đệ tử đông đảo, Tây phương, Âu Mỹ, Thái Lan… nhưng ngài không hề là trụ trì theo cái nghĩa mà chúng ta hiểu là nắm giữ tiền bạc, rồi coi sóc quản chúng ở một chùa, am viện nào đó. Ngài rất độc đáo, khi nhắc về ngài trong quan hệ với tăng chúng thì có một điểm mà tôi rất tâm đắc: ngài ngồi thiền, kinh hành, sống trọn vẹn với nếp sống của một vị thiền sư, một người sư phụ. Tuy nhiên ngài thấy vậy nhưng để ý đệ tử rất kỹ. Cái này tôi được đọc thôi, có những buổi chiều chiều ngồi uống nước chung với học trò, ngài chỉ tay nói “Sư! Thu xếp đồ đạc, mai rời khỏi đây đến chùa nào đó, thay thế cho sư nào đó.” và lâu lâu ngài chỉ một vị, lâu lâu chỉ một vị. Các đệ tử của ngài luôn sống trong tình trạng là người lính thời chiến, có nghĩa là có thể được điều động, đặc phái đi bất cứ lúc nào nên các vị không có thiết tha khi được ai cho cái giường, bàn, tủ gì đó… nhận cho chùa thì nhận nhưng các vị không nhận cho riêng mình, cái gì nặng nặng thì các vị không nhận vì mai này đi sẽ bỏ lại. Nếu mình nhận cái mình thích thì mai này mình bỏ lại cũng cực lòng lắm quý vị, mà nhận cái mình không thích thì nhận làm chi, mai này đi chỉ để rác lại cho người ta thôi. Cho nên chính vì sống trong tâm trạng có thể rời bỏ nơi này đi bất cứ lúc nào cho nên các vị đó không có tâm lý tích luỹ, tích trữ vật dụng. Chính vì kiểu sống như vậy, các vị cũng chưa kịp bén, chưa kịp nhen nhúm có mối quan hệ đặc biệt gì với ai. Điều đó rất là hay, nói theo nghĩa đen. Còn nói theo nghĩa bóng, khi một người biết đạo phải luôn sống trong tâm trạng của một người sắp lên đường, của một kẻ hành nhân đang có một quảng đường phải đi trước mặt. Lúc nào cũng phải sống với một cái túi ba lô trên vai, đụng chuyện là xách ba lô lên mà đi. Chúng ta biết là mình có thể ra đi bất cứ lúc nào, và tôi đã nói biết bao nhiêu lần, người không biết đạo thì thôi nhưng người biết đạo rồi thì đời sống đẹp nhất chính là người có thể ra đi bất cứ lúc nào. Đó chính là đời sống đẹp nhất! Tôi nói thiệt chậm: đời sống đẹp nhất của một người học đạo, hành đạo, hiểu đạo, tin Phật, tu Phật, học Phật là có thể ra đi bất cứ lúc nào. Ra đi ở đây có hai, một là đi về một chỗ ở mới, hai là cái chết. Chứ còn người tu mà không có khả năng sẵn sàng ra đi thì kẹt lắm!

Ở nơi nào, lúc nào, trong cõi đời này, nếu mình sống bằng cái tâm trạng của người chủ, của người ở lại thì chúng ta không khá được. Chúng ta mãi hoài là những lữ khách trên đường sanh tử. Và ngay trong kiếp sống này, ngay trong mỗi ngày, chúng ta chỉ là lữ khách sẵn sàng dấn bước trên đường mà không biết là lúc nào thôi.

Sư Giác Nguyên (giảng)
Trích từ bài giảng pháp Kinh Tăng Chi
146.

KHÔNG HỌC GIÁO LÝ CĂN BẢN, MÀ CỨ TU TẬP ĐỀ MỤC THIỀN CHỈ - THIỀN QUÁN THÌ BIẾT CÁI GÌ MÀ TU. TÔI YÊU CẦU CHÂN THÀNH BÀ ...
13/05/2025

KHÔNG HỌC GIÁO LÝ CĂN BẢN, MÀ CỨ TU TẬP ĐỀ MỤC THIỀN CHỈ - THIỀN QUÁN THÌ BIẾT CÁI GÌ MÀ TU.

TÔI YÊU CẦU CHÂN THÀNH BÀ CON LẬN LƯNG MỘT ÍT GIÁO LÝ CĂN BẢN.

Chúng ta không thể nào hấp tấp vội vã mong được cái này, đắc cái kia khi chúng ta thiếu thời gian chuẩn bị thích hợp.

Tôi không tin tưởng tuyệt đối, nghi ngờ những hành giả Đời Này, chữ Đời Này viết bằng mực đỏ, không có học Giáo Lý căn bản mà cứ tu tập đề mục Tuệ Quán hay là Thiền Chỉ nào đó thì tôi rất là nghi ngờ.

Vì các vị không có căn bản Giáo Lý thì các vị biết cái gì mà Tu?

Các vị đừng có nói với tôi là: “Học mất thời giờ, tôi chỉ có Thiền thôi.”

Tứ Niệm Xứ là nhận diện bản thân mình, nhận diện những hoạt động của Thân và Tâm.

Hoạt động của Thân thì mình biết rồi. Cầm lên để xuống, cắn, nhai, nuốt, tắm rửa, dùng khăn, mở cửa, tắt đèn, dỡ, bước, đạp, ngồi xuống, đứng lên, sờ, chạm..v..v.

Tất cả những hoạt động của Thân thì mình còn nhận diện được.

Nhưng còn những hoạt động của Tâm, nhận diện bằng cách nào khi mình không học Giáo Lý, làm sao mình biết cái nào là Ngã Mạn, Phóng Dật, Tham, Sân, Si, Ái, Mạn, Kiến, Nghi, Hối Hận, Tật Đố, Xan lẫn...v..v.

- Sẵn đây tôi nói luôn, Giáo Lý căn bản là học về Lộ Tâm, Lộ Sắc, Người và Cõi, 12 Duyên Khởi, 37 Phẩm Bồ Đề, 24 Duyên Hệ, Bất Thiện Tập Yếu. Đại khái Giáo Lý Tứ Đế chứ không thể nào mù tịt không biết Tứ Đế là gì.

+ Lộ Tâm:

- Là học để biết rõ cái gọi là Tâm.Tâm thức của chúng sanh Phàm và Thánh, từ lúc mình đầu thai, Tâm mình diễn tiến ra sao? Rồi khi giây phút đầu đời trở đi trong từng phút tâm tư chúng ta diễn tiến ra sao? Khi mắt thấy cảnh sắc, tai nghe tiếng, rồi khi mình ngồi yên suy nghĩ chuyện này chuyện kia, khi mình sống bằng Tâm Bất Thiện, khi sống bằng Tâm Thiện, thì cái diễn biến Tâm thức của mình nó ra sao?

▪︎ Thế nào là Sát na Tâm?

▪︎ Thế nào là Lộ Tâm?

▪︎ Tâm nào có mặt ở cõi nào?

▪︎ Loài nào có được Tâm nào?

Chứ không phải các loài đều có đủ các Tâm giống nhau.

- Hoặc như con heo, chuột, nó không thể có đủ các Tâm của loài người, và loài người không thể có đủ các Tâm của Phạm Thiên.

Thí dụ như Thánh Nhân có những cái Tâm mà người Phàm không có, rồi Phàm có những cái Tâm mà Thánh Nhân không có. Đó là học về Lộ Tâm.

+ Lộ Sắc:

- Biết rõ tấm thân bốn đại này ở các loài noãn thai, thấp, hoá.

Noãn tức là sanh ra bằng trứng. Thai tức là sanh ra nguyên con. Thấp là sanh ra trong điều kiện ẩm thấp của thiên nhiên. Hóa là tự nhiên xuất hiện, đột hiện.

Cái gọi là thế giới vật chất, tấm thân vật chất ở các loài nó khác nhau như thế nào?

Từ lúc nó xuất hiện buổi đầu đời cho đến lúc nó chết, trong thời gian đó tấm thân sinh lý, tấm thân vật chất của mỗi loài lúc nào nó ra sao mình phải biết rõ. Đó gọi là Lộ Sắc.

+ Người Và Cõi:

- Tức là mình biết rõ có vô lượng vũ trụ, trong mỗi vũ trụ như vậy nó có 31 cõi.

Trong 31 cõi đó nó chia làm 3 phần: Dục, Sắc và Vô Sắc.

▪︎ Cõi Dục gồm những cõi nào?

▪︎ Cõi Sắc gồm những cõi nào?

▪︎ Cõi Vô Sắc gồm những cõi nào?

Ở cõi nào có loại chúng sanh nào?

Thí dụ như ở cõi Dục thì có những chúng sanh ở cõi Sắc không có.
Học Người Và Cõi là học như vậy.

+ 12 Duyên Khởi:

- Học 12 Duyên Khởi để thấy rằng đời sống của chúng ta chỉ là sự ghép nối của 6 căn.

Lúc thì chúng ta sống bằng nhãn căn, lúc thì nhĩ căn, nhưng có một điều, đời sống đó chúng ta sống kiểu gì mà chúng ta tiếp tục tạo ra một đời sống khác.

Một vị A La Hán cũng có mắt, tai, mũi, lưỡi như mình, nhưng khi Ngài tắt thở rồi thì xong, không còn tái sanh nữa.

Còn đời sống của mình cũng là 6 căn nhưng mình sống kiểu gì? Bằng Tâm gì? Bằng những động cơ nào? Những thúc đẩy nào? Tác động nào?

Cũng là đời sống 6 căn, mà hễ 6 căn này nó rụi rồi là bèn có 6 căn khác. Thì đó được gọi là giáo lý Duyên Khởi hay là 12 Nhân Duyên.

+ 37 Phẩm Bồ Đề:

- Là biết rõ chúng ta sanh tử là do phiền não, bây giờ chúng ta phải sống ngược lại với phiền não đó bằng cách là trau dồi các Thiện Pháp đối xứng.

Thí dụ như ngày xưa tới giờ mình chỉ biết Tham, Sân, Si, Tà kiến, Ngã mạn, bỏn xẻn, ganh tỵ,.. Thì bây giờ mình phải Tu tập những Thiện Pháp đối lập lại, đối xứng với những Bất Thiện đó gồm có: Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc.

Mình phải học về các Pháp Thiện, tức là con đường giải thoát.

Rồi mình cũng phải học Bất Thiện Tập Yếu để mình biết rõ vì đâu mà mình sanh tử, và muốn thoát sanh tử thì mình phải tu tập cái gì?

Chứ không phải khơi khơi vô Thiền viện rồi Thiền sư hướng dẫn kỹ thuật hít thở, theo dõi Chánh Niệm như vậy là đủ.

- Tôi xin nói rõ chỗ này, nói thiệt chậm: Thời Phật có cả một tỉ người không cần học Giáo Lý, họ vẫn đắc dễ dàng là vì ít nhất là 2 lý do:

1. Những nhân vật dễ dàng đắc chứng họ là ai ? Họ đã tu bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp rồi,... mình nhắm mình có bì bằng họ không?

2. Người hướng dẫn họ là Đức Phật, là các vị Thánh Tăng, là những vị Thánh Cư sĩ. Nói chung là các bậc Thánh Nhân.

Khả năng của họ tràn trề thừa mứa, không phải đủ mà là thừa mứa, đã vậy đương sự được sự hướng dẫn toàn là những vị Phước báu cao như núi, sâu như biển,... thì làm sao mình bì với họ được. Cho nên mình đừng dựa vào một hai câu chuyện mấy nhân vật đó rồi mình nghĩ là không cần học Giáo Lý.

- Tôi chỉ yêu cầu chân thành bà con lận lưng một ít Giáo Lý căn bản.

Còn các vị học thế nào? Học cái gì? Học với ai? Thì chuyện đó của các vị. Khi nào các vị tìm đến tôi là chuyện của tôi. Phải hội đủ những điều kiện này thì chúng ta mới có thể thành tựu được tâm nguyện giải thoát của mình.

Sư Giác Nguyên

KỆ PHẬT ĐẢN Hai ngàn năm bóng câu cửa sổTừ Thế Tôn diệt độ năm xưa Trần hoàn trải bấy nắng mưa Đến nay Phật Pháp đã vừa ...
05/05/2025

KỆ PHẬT ĐẢN

Hai ngàn năm bóng câu cửa sổ
Từ Thế Tôn diệt độ năm xưa
Trần hoàn trải bấy nắng mưa
Đến nay Phật Pháp đã vừa năm châu

Lễ Vesak nhiệm màu ý nghĩa
Thật thiêng liêng ngày vía Phật Đà
Phi thường trong một có ba
Niết Bàn, Thành Đạo cũng là Đản Sinh

Trước Phật Đài nghiêng mình kính lễ
Dâng Thế tôn lời kệ cúng dường
Hữu vi chi cũng vô thường
Chỉ riêng Chánh Pháp là đường thiên thu

Soi tỏ những mây mù phiền não
Cho chúng sinh ốc đảo tựa nương
Khắp cùng ba cõi mười phương
Biển tâm chư Phật rộng thương muôn loài

Tám mươi tuổi Như Lai điều ngự
Rũ bỏ thân sinh tử non đoài
Bốn lăm năm bước hoằng khai
Dặm mây khuyến hóa muôn loài sinh linh

Kịp đến ngày công thành quả mãn
Thành K**i dưới tán Sa-la
Đại bi chẳng nệ thân già
Độ thêm một Subhadda cuối cùng

Ngay sau đó ung dung diệt độ
Khắp tam thiên sấm nổ tiếc thương
Khóc cho một đóa vô thường
Phật Đà cũng một giọt sương đầu cành

Nay chúng con hậu sanh nhớ Phật
Xin đầu thành tiếp túc Phật đài
Thân phàm kính lễ Như Lai
Huân tu thiện nghiệp đợi ngày vô sanh

Toại Khanh

PHẬT DẠY NGÀI ĀNANDA NÊN TIẾP SỨC CHO CÁC VỊ TÂN SƯ BẰNG CÁCH NHẮC NHỞ HỌ 5 ĐIỀU:1-Phải Có Giới Hạnh : Giới phẩm nào phả...
04/05/2025

PHẬT DẠY NGÀI ĀNANDA NÊN TIẾP SỨC CHO CÁC VỊ TÂN SƯ BẰNG CÁCH NHẮC NHỞ HỌ 5 ĐIỀU:

1-Phải Có Giới Hạnh :

Giới phẩm nào phải giữ tròn giới phẩm đó. Bởi vì khi không có giới thì tâm ray rứt, không tập trung tư tưởng, lòng sẽ không thanh thản.

2-Thu Thúc Lục Căn :

Toàn bộ đời sống chúng ta chỉ là những phút giây làm việc, hoạt động vận hành của sáu căn. Chúng ta có bất kì là ai đi nữa thì toàn bộ cuộc đời chỉ là những phút giây làm việc của sáu căn bao gồm: Mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm, ý suy tư. Làm chủ sáu căn là làm chủ chính mình và làm chủ tam giới. Người làm chủ sáu căn là hiện tại lạc trú, an lạc hiện tiền, không có ưu tư, lo âu buồn khổ. Hơn nữa, nếu đủ duyên lành có thể chứng thánh. Ngoài ra, thu thúc lục căn có thể ngăn chặn mầm mống sinh tử.

3. Hạn Chế Cái Miệng, Nói Ít Lại

Bởi vì khi mà ta nói nhiều quá có nghĩa là cho ra nhiều hơn nhận vào, trong khi phàm phu nào cũng cần nhận vào nhiều hơn là cho ra. Vì khi ta nói, thì tai ta bị đóng lại. Khi nói quá nhiều thì lỗ tai không còn muốn nghe ai nói nữa.

4. Tập Sống Chỗ Quạnh Hiu Thanh Tịnh

Các vị nên nhớ dù làm việc khoa học hay nghệ thuật đều cũng cần phải có một không gian rất đỗi riêng tư. Đa phần những công trình, nghiên cứu, phát minh, sáng tạo ..v...v phần lớn đều được khai sinh từ một không gian vắng vẻ, cô quạnh. Vì sao vậy? Vì lúc đó sáu căn của mình mới có thời gian để dồn hết lực làm việc. Còn nếu chúng ta ở một nơi quá nhiều cám dỗ từ các phía mắt, tai, mũi, lưỡi thì rất khó tập trung. Cho nên ở chỗ độc cư là điều kiện để phát triển tâm linh, vì khi đó ta không tiêu hao năng lượng cho những chuyện không cần thiết, và nguồn năng lượng đó được dùng cho việc hữu ích mạnh mẽ hơn. Một trong những dấu chỉ của người hùng mạnh là khả năng sống một mình.

5- Trau Dồi Chánh Tri Kiến

Trau dồi chánh tri kiến, Chú giải kinh này giải thích rằng chánh tri kiến ở đây gồm có 5 :

a. Trí tuệ về lý nhân quả nghiệp báo, thấy rằng mỗi cá nhân đều đi theo nghiệp riêng
b. Trí tuệ có được từ việc tu tập Samatha, thiền định
c. Trí tuệ có được từ việc tu tập Vipassana, tức Tứ niệm xứ
d. Thánh đạo
e. Thánh quả.
Cả 5 điều này được gọi chung là chánh tri kiến.

Sư Giác Nguyên
(chép lại bài giảng của Sư ngày 3-10-2018)
(IV) (114) Tại Andhakavinda

THIỀN VIPASSANA KHÁI QUÁTThiền là một danh từ không còn xa lạ gì trong giới Phật tử. Ngày nay thiền không còn bị bó hẹp ...
04/05/2025

THIỀN VIPASSANA KHÁI QUÁT

Thiền là một danh từ không còn xa lạ gì trong giới Phật tử. Ngày nay thiền không còn bị bó hẹp trong bốn bức tường tu viện hay phận sự của các tu sĩ. Thiền được phổ biến sâu rộng hầu như khắp nơi trên thế giới.

Con người ngày nay quá bận rộn với những sinh hoạt hàng ngày. Sự cám dỗ vật chất quá mãnh liệt, khiến con người khó làm chủ được bản thân. Thiền dạy cho chúng ta phương pháp tập trung quan sát các hiện tượng xuất hiện trong ta và quanh ta giúp chúng ta nhận ra được những định luật chung của vạn vật trong vũ trụ: Vô Thường, Khổ hay Bất Toại Nguyện, và Vô Ngã. Nhờ thấy được định luật này mà tâm ta sẽ vơi đi những dính mắc, loạn động, giúp cuộc sống của chúng ta nhẹ nhàng, thanh thản.

Ngoài sự thành tựu cao tột mà thiền đúng cách mang lại là loại trừ hoàn toàn Tham, Sân, Si , thiền còn là một nghệ thuật sống giúp một người có sự bình yên và hoà hợp trong bản thân, gia đình và xã hội.

Trong đạo Phật, về phương diện pháp hành Thiền có hai phương pháp tu tập: là Thiền Định (Samatha) và Thiền Quán (Vipassanà). Thiền Quán còn gọi là Thiền Tuệ, Như Lai Thiền, Thiền Minh Sát, hay Thiền Tứ Niệm Xứ.

Vipassna là kếp hợp của hai từ: “Vi” – và “passana”. “Vi” nói đến ba đặc tính của thân và tâm, đó là vô thường, khổ hay bất toại nguyện, và vô ngã. “Passana” có nghĩa là sự hiểu biết đúng đắn hay sự chứng ngộ thông qua sự tập trung sâu sắc, hay sự hiểu biết đúng đắn về ba đặc tính của thân và tâm kể trên. Khi chúng ta thực hành thiền minh sát ( Vipassana), mục đích là để nhận ra ba đặc tính vô thường, khổ và vô ngã của các hiện tượng thân và tâm.

Bằng cách nhận thức đầy đủ ba đặc tính của tâm và thân này, chúng ta có thể tiêu diệt mọi ô nhiễm như tham muốn, ái dục, sân hận, ác ý, ghen tị, tự phụ, lười biếng và hôn trầm, buồn phiền và lo lắng, bồn chồn và hối hận. Tất cả những loại ô nhiễm này là nguyên nhân của đau khổ. Chừng nào chúng ta còn có bất kỳ loại ô nhiễm nào, chắc chắn chúng ta còn phải trải qua nhiều loại đau khổ. Chi khi nào chúng ta tiêu diệt tất cả những ô nhiễm này, chúng ta sẽ đạt được giải thoát thật sự hay sự chấm dứt mọi đau khổ.

Thiền Định Samatha và Thiền Quán Vipassana

Về cơ bản, thiền định là tập trung tâm vào một đối tượng sâu sắc và giúp cho tâm tỉnh lặng. Ðây là sự thực hành trong sự tập trung tâm vào bất kỳ đề mục duy nhất nào và phát huy khả năng để gom tâm ngay đề mục đó. Thiền quán cũng được gọi là thiền tiến trình, không tập trung tâm vào một đề mục cố định. Thay vào đó phát huy khả năng định tâm trên những đề mục thay đổi như là một phương tiện để kiểm chứng bản chất tiến trình thân tâm. Thiền quán được thực hành bằng cách phát triển sự chú ý đơn thuần, một cái thấy mà không phản ứng với toàn bộ quá trình thế giới kinh nghiệm của chúng ta, với ý thức và với tất cả các đối tượng của ý thức. Ðáng lẽ ra, tập trung vào một đề mục nào đó thì người ta lại tập trung vào sự thay đổi liên tục của thân tâm lấy nó làm đề mục, và qua sự quan sát rõ ràng và thăng bằng chúng ta thực sự đạt đến tuệ giác và trí tuệ để hiểu chúng ta thật sự là ai.

Ðề mục thiền định theo truyền thống thì rất nhiều. Ðức Phật dạy có bốn mươi đề mục; tuy nhiên bất cứ vật nào dùng để tâm tập trung đều có thể thực hiện cho việc thiền định. Sự tập trung này bao gồm việc tập trung vào một đề mục quán tưởng chẳng hạn như đèn cầy hoặc một biểu tượng về đạo giáo hay ánh sáng; tập trung vào âm thanh như tiếng nhạc, câu thần chú, nước chảy, chim kêu. . .tập trung vào cảm giác như tình thương, từ bi, hỉ xả, hoặc tập trung bất cứ nơi nào trong cơ thể, chẳng hạn như hơi thở ở mũi hoặc ở tim hoặc bất cứ đề mục khác nơi mà tâm trụ vào một cách vững chắc.

Thiền định phát huy được những trạng thái tâm vắng lặng vô biên, và thường thường có những sức mạnh nào đó. Thiền định có thể dẫn đến những sự nhận biết về vũ trụ và các lãnh vực tinh tú và loại bỏ tạm thời Tham, Sân, Si.

Ðịnh cũng là một yếu rất cần thiết cho thiền quán, nhưng sự cần thiết của định cho thiền quán phải thông qua việc áp dụng định lên những đối tượng thay đổi. Thiền quán tập trung chánh niệm tỉnh giác vào thân, thọ, tâm, pháp bởi vì chúng cảm nhận qua từng sát-na. Khi sự tập trung và chú ý tăng dần tâm trở nên trong sáng và quân bình. Tâm càng tập trung sâu sắc thì chúng ta nhận biết các sự vật đang thay đổi từng sát-na ra sau, những sự việc này cuối cùng không còn là suối nguồn hạnh phúc vĩnh cửu, và toàn bộ thân tâm trải qua một tiến trình theo định luật nhân quả (kamma), vô thường hay không có linh hồn. Từ khi chánh niệm gia tăng, thể nhập, nhận thức qua việc tu thiền của bản thân nên các tuệ giác sâu sắc này trở nên hoàn toàn trong sáng. Với trí tuệ phát sanh đã mang lại công bằng, bác ái, từ bi, do cảm nhận vô ngã chúng ta thấy được sự đồng nhất của chúng sinh. Khi tâm được hoàn toàn quân bình, vắng lặng và tỉnh giác, người ta có thể cảm nhận được sự đoạn diệt của toàn bộ tiến trình đang hoạt động này, đây là an lạc của Niết-bàn. Với sự an lạc này phát sanh tuệ giác cảm nhận sâu sắc lý vô thường, và tâm không còn chấp thủ nữa, điều đó là tình thương, hạnh phúc, một trạng thái tâm tươi sáng thoát khỏi phiền não.

Người ta có thể bắt đầu thực hành bằng một bài tập thiền định và sau đó thay đổi để nhận thức theo tiến trình. Lúc ban đầu một số thiền sư thích sử dụng kĩ thuật tập trung để giúp các hành giả giữ tâm khỏi phóng dật. Sau đó chư vị dạy trực tiếp sự tập trung này vào tiến trình thân tâm để phát huy trí tuệ. Các vị thiền sư khác cố hướng dẫn hành giả trực tiếp theo dõi tiến trình bằng cách tập trung vào sự thay đổi các cảm giác như tình cảm, tư tưởng. Phương pháp này phải liên hệ với sự phát huy khả năng vắng lặng và tập trung tâm trước khi bất cứ tuệ giác nào phát sanh. Ðức Phật dạy hai phương pháp khác nhau tùy theo nhu cầu của đệ tử.

Mặc dù người ta không đồng ý về những lý lẽ của những phương pháp khác nhau này, chúng ta phải nhớ rằng đây chỉ là những phương tiện tu tập khi thành tựu rồi xả bỏ đi. Trong thực tế hầu hết các phương pháp thiền có giá trị là khi tu tập có giới luật, có chơn thật và có kiên nhẫn. Cố hấp vào bất cứ phương pháp nào hay so sánh cái này với cái kia chỉ là chấp thủ thêm, điều đó sẽ dẫn đến đau khổ.

Chánh Niệm
Nền tảng của tất cả các pháp Thiền Vipassana chính là sự thực tập “Chánh Niệm”- sự nhận biết đơn thuần không có suy nghĩ hay phân biệt ngay bây giờ và ở đây. Nhờ phát huy trí tuệ, phẩm chất tâm vượt trội hơn tất cả những thứ khác đó là chìa khóa để tu tập. Phẩm chất này là chánh niệm và tỉnh giác. Phương pháp hay nhất để hiểu hoàn cảnh sống của chúng ta là quan sát bằng cái tâm bình đẳng. Thái độ quan sát bình đẳng, giúp chúng ta nhận xét một cách trung thực những diễn biến xảy ra trong ta và quanh ta một cách tự nhiên. Bằng sự tỉnh giác trong giây phút hiện tại, chúng ta càng thấy rõ ràng hơn những đặc tính thật sự của tiến trình thân tâm.

Ðạo Phật xuất phát từ sự hiểu biết. Thế giới là gì? Thế giới là những vật trông thấy được, như nghe, nếm, ngửi và sờ mó; các đối tượng của tâm và sự nhận biết củ ác đối tượng này. Qua sự nhận thức không phân biệt, chúng ta có thể thể nhập và hiểu rõ ràng nhất về bản chất của thế gian. Ví dụ khi một người đang giữ chánh niệm về sự nhìn, thì không đánh giá vào đối tượng cảnh vật, tạo thành những ý niệm tốt xấu, đẹp tồi, quen thuộc hay không quen thuộc về những thứ đó. Chính xác hơn sự chú ý trở thành tiến trình nhận biết sự thấy, hơn những sự việc đi theo cùng với sự thấy. Những ý niệm này đi theo với cảm nhận. Chánh niệm tập trung vào sát-na của tiến trình hơn là sự suy tưởng của nó về những ý niệm. Nhận thức thì trực tiếp vào ngay trong giây phút hiện tại, cho đến tiến trình này, đó là nơi duy nhất chúng t ó thể hiểu được bản chất thực sự của nó. Sự nhận thức này đem lại một sự hiểu biết mà kết quả là có trí tuệ, có giải thoát và chấm dứt đau khổ. Không những tu tập chánh niệm để giúp cho chúng ta thể nhập pháp giới mà còn hiểu được nguyên nhân đau khổ; khi đã tu tập, chánh niệm có sức mạnh lạ thường. Chánh niệm giúp cho tâm chúng ta trong sạch từng giây phút. Mỗi giây phút chúng ta đều có ghi nhớ, tâm trong sạch thoát khỏi sân hận và si mê. Do giây phút trong sạch đó, tâm mới mát mẻ vì nó có đầy đủ sự chú tâm vào những gì không có hình thức màu mè. Tu tập chánh niệm cũng làm thăng bằng các yếu tố khác của tâm như năng lực và tập trung là nhu cầu cho sự phát huy tinh thần củ húng ta. Trong thực tế, làm cho tâm quân bình hoàn hảo thì chính là phát triển toàn bộ con đường tu tập. Khi chánh niệm khéo tu tập có thể làm vơi đi mọi điều sợ hãi, vì khi đó tâm đã đoạn trừ mọi chấp thủ nên không còn bị sanh tử luân hồi, không còn cầu mong, không còn sợ hãi nữa. “Không có ca tụng, không có khiển trách”. Cuối cùng, chúng ta thấy rằng không còn gì để mưu cầu nữa. Ðó chỉ là định luật vô ngã.

Di huấn tối hậu của đức Phật trước khi ngài nhập Niết là “Hãy tinh tấn có chánh niệm”. Tinh tấn không có nghĩa là nỗ lực để thay đổi các sự việc, mà nỗ lực để có sự nhận biết rõ ràng ở mọi thời điểm. Ngây Bây Giờ. Ở Đây. Và Chánh Niệm.

Toàn bộ giáo lý và sự thực tập của đức Phật có thể được tóm tắt như sau:

Không có gì đáng để bám chấp vào.”

Nếu quý vị buông xả mọi thứ,

Đối tượng

Khái niệm

Thầy dạy

Ðức Phật

Bản ngã

Giác quan

Ký ức

Cuộc đời

Cái chết

Giải thoát

Buông xả được như thế, thì tất cả đau khổ sẽ chấm dứt. Thế giới sẽ hiện ra trong bản chất tự tồn tại ban sơ của nó, và quý vị sẽ hưởng được hương vị giải thoát của đức Phật.”

Tất cả các phương pháp hành Thiền Vipassana chỉ là những cách tiếp tập và kĩ thuật hữu ích để giúp chúng ta học và thực chứng được sự buông xả đó.

Thích Ca Thiền Viện California – Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada Tại Hoa Kỳ – Sakyamuni Buddhist Meditation Association

Address

Xã Tân Lạc, Bảo Lâm
Bao Loc
25087

Telephone

+84359810127

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Chùa Tân Lạc posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Practice

Send a message to Chùa Tân Lạc:

Share