22/11/2023
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN RỐI LOẠN CƯỠNG BỨC CÓ HÀNH VI TỰ GÂY TỔN THƯƠNG TRÊN DA
Trần Thanh Liêm
I. BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP BỆNH
Họ và tên: Phan Nguyễn Hương T.
Ngày sinh: 21/11/2000.
Nghề nghiệp: học sinh.
BN được đưa đi khám bệnh lần đầu tại Bệnh viện Tâm thần Trung ương 2 ngày 12/09/2015 với lý do: gây tổn thương ở mặt trong cẳng tay trái.
Bệnh nhân đang học lớp chín tại một trường THCS tại tỉnh Phú Yên. Theo lời mẹ bệnh nhân kể,cháu đi học đều đặn, về nhà có thể giúp cha mẹ một vài công việc nhưng không thường xuyên. Thời gian rảnh còn lại cháu thường ở trong phòng riêng, ít khi đi chơi hay tụ tập bạn bè, chưa bao giờ nói chuyện về các bạn của mình. Cháu luôn gọn gàng và ngăn nắp, rất sạch sẽ, không ngồi vào chỗ ngừơi khác vừa ngồi hay nghi ngờ là không sạch sẽ. Tuy nhiên bà mẹ cũng xác nhận rằng trong khoảng vài năm gần đây, việc học của cháu sa sút rất rõ, thậm chí đã có những phàn nàn
của của các thầy cô ở trường. Gia đình cũng chỉ dừng lại ở mức nhắc nhở cháu chịu khó học tập. Người mẹ chú ý hơn và cũng nhận thấy rằng con gái chị không bao giờ mặc áo ngắn tay kể cả lúc ở trong nhà và khi ra ngoài. Trong một lần cháu phụ giúp nấu ăn, người mẹ đã vô tình thấy những vết rạch ở mặt trước trong cẳng tay trái. Có vết đã khô, đã lành hẳn nhưng có chỗ còn rớm máu. Khi thấy mẹ hốt hoảng, cháu vội vàng kéo tay áo che lại và nói với mẹ là không sao. Khi mẹ căn vặn nhiều thì cháu lý giải là do chơi đùa với bạn và không may bị như vậy. Mẹ đưa cháu đến bác sỹ địa phương. Tại đây cháu được xử lý vết thương và uống kháng sinh.
Tuy nhiên thời gian sau đó, người mẹ vẫn kín đáo quan sát kỹ hơn thì thấy các tổn thương vẫn xuất hiện lặp đi lặp lại và không bao giờ hết hẳn. Cháu luôn cố tình mặc áo dài tay, có khi che kín cả bàn tay. Cuối cùng chị đã vô cùng ngạc nhiên khi những vết thương mới vẫn xuất hiện như lúc đầu. Quyết định nói chuyện thẳng thắn thì chị được con gái thú nhận là chính mình dùng dao lam và kẹp tóc tự rạch trên tay mình. Cháu cũng cho biết là mình không muốn làm điều này và thường cảm thấy hối hận và xấu hổ khi làm như vậy. Nhưng dường
như có gì đó thúc đẩy cháu phải làm và không thể dừng lại.
Cho rằng con mình có vấn đề về tâm lý, chị đã đưa cháu đi nhiều nơi và trải qua những đợt trị liệu tâm lý. Tuy nhiên các chữa trị với các chuyên gia tâm lý đã không cho hiệu quả như mong đợi. Cuối cùng, sau khi tham khảo các BS cũng như tìm hiểu trên mạng,chị đã quyết định đưa con đi khám tại bệnh viện tâm thần trung ương 2. Tại đây bệnh nhân đã được chẩn đoán là rối loạn cưỡng bức có hành vi tự gây tổn thương trên da với các triệu chứng khác của OCD. Bệnh nhân sau đó được diều trị bằng fluoxetine kèm theo liệu pháp nhận thức - hành vi. Sau khoảng 2 tháng điều trị, cháu đã có thể trở lại học tập bình thường, không còn gây tổn thương mới. Hiện tại cháu đang theo học tai một trường đại học và vẫn duy trì fluoxetine liều thấp.
II. TỔNG QUAN VỀ OCD VÀ CƯỠNG BỨC GÂY TỔN THƯƠNG TRÊN DA
2.1. Rối loạn cưỡng bức gây tổn thương trên da (excoriation (skin-picking) disorder)
Theo Sadock (2015), rối loạn cưỡng bức gây tổn thương trên da là hành vi lặp đi lặp lại của bệnh nhân tự gây những tổn thương trên da. Hành vi này có thể gây ra những tổn thương nghiêm trọng trên da dẫn đến việc phải điều trị tại các bác sĩ da liễu. Theo Wihelm và cộng sự (1999), tự gây các tổn thương trên cơ thể (selt harm, selt injury, selt cutting, selt harm addiction, selt mutilation…) là hành vi lặp đi lặp lại gây
các tổn thương trên da, xảy ra nhiều ở thanh thiếu niên. Các vị trí gây tổn thương thường gặp là mặt, bàn tay, và cẳng tay. Một khi đã tạo ra vết thương thì bệnh nhân tiếp tục gây tổn thương tại đó và không thể dừng lại. ICD-10 không phân loại kiểu rối loạn hành vi này trong các mã bệnh tâm thần. Mã bệnh L98.1 đề cập đến viêm da tự tạo (factititial dermatitis) hay gọi là chứng tổn thương da thần kinh (neurotic excoriation) không phải mã bệnh tâm thần. DSM-5 xếp các rối loạn tự gây tổn thương trên da (excoriation) là một chứng rối loạn có liên quan đến ám ảnh cưỡng bức và có mã chẩn đoán 698.4. Đa số bn sử dụng móng tay gây tổn thương, nhưng cũng có thể dùng kẹp tóc, dao lam hay các loại dụng cụ khác. Ngoài ra còn có thể là chà xát, đâm, hoặc cắt, thậm chí là cắn. Theo Rosen (2009), nếu tổn thương là những vết cắt thì đó là những vết cắt tuyến tính, đường thẳng hay song song... trên cẳng tay, cánh tay hay ở chân.
Theo DSM-5, đặc điểm chẩn đoán quan trọng của rối loạn cưỡng bức gây tổn thương trên da là sự tái diễn dai dẳng hành vi tự gây tổn thương trên da của
chính mình. Các vị trí tổn thương thường gặp là ở mặt, cẳng tay hay bàn tay. Cũng có những trường hợp bệnh nhân tự gây tổn thương ở nhiều vị trí khác nhau trên cơ thể tạo thành những vết như bị nhọt hay vết sẹo. Đa số bệnh nhân dùng móng tay, nhưng cũng rất nhiều trường hợp sử dụng nhíp, cặp tóc, chà xát, ép, đâm, hay cắn bằng răng. Bệnh nhân mắc chứng này
thường mất thời gian vào việc nghĩ đến hoặc thực hiện hành vi này.
Theo Sadock (2015), lệ suốt đời của rối loạn cưỡng bức gây tổn thương trên da là 1-5% trong cộng đồng. Tuy nhiên tỉ lệ này cũng có sự khác biệt trong những cộng đồng dân cư khác nhau. Ví dụ ở bệnh nhân tâm thần là thanh thiếu niên thì tỉ lệ là 12% và 2% ở những người điều trị viêm da... Rối loạn loại này có thể thấy ở hầu hết mọi lứa tuổi, tuy nhiên nhiều hơn ở tuổi thanh thiếu niên đặc biệt là tuổi dậy thì. Các rối loạn đi kèm với hành vi cưỡng bức gây tổn thương trên da bao gồm cưỡng bức nhổ tóc 38%, nghiện chất 38%, trầm cảm 32-58%, lo âu 23-58%...
Tiêu chuẩn DSM-5 chẩn đoán cưỡng bức gây tổn thương trên da
A. Tái diễn hành vi gây tổn thương trên da.
B. Bệnh nhân đã nhiều lần muốn giảm hoặc dừng lại nhưng không thể.
C. Hành vi gây tổn thương trên da gây khó chịu hoặc làm suy giảm các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp và các lĩnh vực chức năng quan trọng khác.
D. Hành vi này không phải do một tình trạng bệnh lý thể chất, nghiện chất, hay các tình trạng bệnh lý khác gây ra.
E. Hành vi này không nằm trong bệnh cảnh của các rối loạn tâm thần khác (các hoang tưởng, ảo giác xúc giác, nhận thức về những khiếm khuyết và không hoàn hảo ngoại hình trong rối loạn ám ảnh dị dạng cơ thể...
Theo Katharine A. Phillips và cộng sự (2013), rối loạn cưỡng bức gây tổn thương trên da thường kết hợp với những cảm xúc tiêu cực và suy giảm các chức năng xã hội và nghề nghiệp. Phần lớn bệnh nhân sống ít cởi mở, có thể né tránh những chỗ đông người
và nơi có những sự kiện giải trí. Bệnh nhân sử dụng tối thiểu 1 giờ trong ngày nghĩ về hành vi gây tổn thương trên da và có những sự thúc đẩy tái diễn thực
hiện hành vi này. Nếu bệnh nhân là học sinh, sinh viên thì hành vi này thường ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc học hành. Hậu quả của hành vi này là bệnh nhân có những vùng tổn thương da và tổ chức dưới da và có thể gây nhiễm trùng. Đã có những bệnh nhân bị viêm màng hoạt dịch khớp cổ tay do hành vi cưỡng bức gây tổn thương trên da đã được báo cáo.
2.2. Rối loạn ám ảnh cưỡng bức (Obsessive Compulsive Disorder, OCD)
OCD là một rối loạn tâm thần được ICD-10 xếp mã F42. Trước đây, DSM-IV và ngay cả phiên bản chỉnh sửa DSM-IV-TR của hiệp hội tâm thần Mỹ đều xếp
OCD là một thể của các rối loạn lo âu. Tuy nhiên, DSM-5 (2013) đã xếp OCD và một số rối loạn liên quan trong một chương riêng biệt gọi là rối loạn ám ảnh cưỡng bức và các rối loạn liên quan (Obsessive –Compulsive Disorder and related disorders). Các rối loạn này bao gồm: OCD, rối loạn ám ảnh dị dạng cơ
thể (body dysmorphic disorder), rối loạn cưỡng bức tích trữ (hoarding disorder), rối loạn cưỡng bức nhổ tóc (trichotillomania), rối loạn cưỡng bức gây tổn thương trên da (excoriation) và trạng thái ám ảnh cưỡng bức do ma túy và một số hóa dược gây ra.
Theo DSM-V, OCD bao gồm 2 nhóm triệu chứng chính là tư duy ám ảnh và/hoặc hành vi cưỡng bức. Bệnh nhân với chẩn đoán OCD có thể chỉ có tư duy
ám ảnh hoặc hành vi cưỡng bức, trong khi đó một số bệnh nhân lại biểu hiện cả hai. Nếu trên cùng một bệnh nhân xuất hiện cả tư duy ám ảnh và hành vi
cưỡng bức thì có thể hành vi cưỡng bức liên quan trực tiếp đến tư duy ám ảnh và nó phản ánh nội dung của tư duy ám ảnh. Hoặc cũng có thể tư duy ám ảnh và hành vi cưỡng bức xuất hiện trên cùng một bệnh nhân nhưng chúng độc lập với nhau.
Theo Katherine A. Phillips và cộng sự (2013), tại Mỹ, tỉ lệ lưu hành 12 tháng của OCD là 1,2%. Nữ giới có tỉ lệ mắc OCD cao hơn. Tuổi khởi phát trung bình là 19,5 và có khoảng 25% khởi phát ở độ tuổi 14. Trẻ trai có tuổi khởi phát sớm hơn. Khoảng 25% trẻ trai có tuổi
khởi phát trước 10 tuổi. Các triệu chứng khởi phát thường diễn ra từ từ và kín đáo nên việc chẩn đoán đúng thường xảy ra chậm hơn nhiều do các triệu chứng dễ được cho là do tâm lý lứa tuổi hoặc do phản ứng tâm lý tiêu cực của trẻ, thậm chí có thể được chẩn đoán là loạn thần.
Các yếu tố liên quan đến bệnh nguyên, bệnh sinh của OCD dẫ được đề cập đến. Một số ý kiến cho rằng môi trường có tác động đến khởi phát của bệnh.
Người ta thấy những trẻ có tiền sử chấn thương tâm lý tuổi vị thành niên, đặc biệt là trẻ bị lạm dụng thể chất và tình dục, trẻ bị bỏ rơi có thể dẫn đến khởi phát OCD đột ngột. Tuy nhiên ngày nay người ta chú ý nhiều hơn đến yếu tố di truyền. theo Katharine A. Phillip và cộng sự (2013), tỉ lệ bị OCD ở những người có liên quan máu mủ cấp độ thứ nhất với những người mắc OCD là gấp 2 lần so với cộng đồng và tỉ lệ này là gấp 10 lần ở hững người có liên quan với người mắc OCD khởi phát sớm. Các rối loạn đi kèm có thể làm che mờ chẩn đoán OCD. Cũng theo Katherine A. Phillips và cộng sự (2013), tỉ lệ bệnh nhân OCD có lo âu là 76%, trầm cảm 63%, Tic 30%. Các rối loạn trong phổ của ám ảnh cưỡng bức cũng có thể đi kèm OCD như ám ảnh dị dạng cơ thể, rối loạn cưỡng bức nhổ tóc, rối loạn cưỡng bức gây ổn thương trên da.
Tiêu chuẩn DSM-5 chẩn đoán rối loạn ám ảnh cưỡng bức:
A. Xuất hiện tư duy ám ảnh và/hoặc hành vi cưỡng bức:
Tư duy ám ảnh được định nghĩa bởi (1) và (2)
Xuất hiện sự xâm nhập một cách không mong muốn vào tâm trí người bệnh và tái diễn dai dẳng những ý nghĩ, sự thúc đẩy (urge), hình ảnh trong thời gian bị bệnh. Những ám ảnh này gây ra sự lo lắng và buồn bực rõ ràng với bệnh nhân.
Bệnh nhân cố gắng phớt lờ, trấn áp những ý nghĩ, sự thúc đẩy và hình ảnh đó hoặc hóa giải chúng bằng những ý nghĩ và hành vi khác (vd thực hiện những hành vi cưỡng bức)
Các hành vi cưỡng bức được định nghĩa bởi (1) và (2)
Xuất hiện những hành vi lặp đi lặp lại (như rửa tay, đếm…) hay những động tác tâm thức (như cầu nguyện, đếm, lặp đi lặp lại một từ…) mà bệnh nhân
cảm thấy như bị thúc đẩy thực hiện để đáp ứng với nội dung của tư duy ám ảnh hoặc tuân thủ theo một quy tắc cứng nhắc.
Những hành vi này nhằm đề phòng hay làm suy giảm lo âu và buồn bực hoặc đề phòng những tình huống hay sự kiện kinh hãi có thể xảy ra. Mặc dù vậy
những hành vi này không theo cách nhăm hóa giải thực sự hoặc là chúng biểu hiện thái quá.
Lưu ý: trẻ em thường không có khả năng diễn đạt mục đích của những hành vi và động tác này.
Tư duy ám ảnh và hành vi cưỡng bức gây mất thời
gian (ít nhất là một giờ tronh một ngày) gây bực bội và làm ảnh hưởng rõ ràng đến chức năng xã hội, nghề nghiệp và các hoạt động chức năng khác.
Các triệu chứng ám ảnh cưỡng bức không phải do tình trạng bệnh lý cơ thể, nghiện chất hay một tình trạng y khoa nào gây ra.
Các triệu chứng ám ảnh cưỡng bức không phải do một rối loạn tâm thần khác (lo âu quá mức, lo âu lan
tỏa, rối loạn ám ảnh không hoàn hảo của cơ thể, rối loạn tích trữ, rối loạn cưỡng bức nhổ tóc, rối loạn cưỡng bức gây tổn thương trên da, rối loạn vận động kiểu rập khuôn, hành vi ăn uống nghi thức hóa trong
rối loạn bản năng ăn uống, nghiện ma túy, rối loạn
nghi bệnh, trầm cảm, tâm thần phân liệt và các rối
loạn loạn thần, rối loạn phổ tự kỷ).
III. THẢO LUẬN CHẨN ĐOÁN
Bước đầu thăm khám bệnh nhân, chúng tôi nhận thấy cháu khá rụt rè và không thật sự cởi mở. Phải mất khá nhiều thời gian thuyết phục cháu mới cho chúng tôi thăm khám vùng tổn thương ở tay. Những vết tổn thương ở mặt trong cẳng tay trái (như hình
chụp) không xuất hiện cùng thời gian. Có những vết mới được tạo ra còn rỉ nước, có những vết đã khô,đang liền và cả những vết đã lành lặn và thành sẹo.
Các vết rạch đồng hướng và song song nhau. Bệnh nhân thường nghĩ về việc này và có lúc cháu thấy như có một sự thôi thúc và buộc cháu phải rạch mà không thể dừng lại được. Cháu cũng nói rằng việc rạch này đã xảy ra một thời gian dài, không phải vì bực tức hay
bất mãn với ai. Cháu đã dấu cha mẹ và mọi người bằng cách mặc áo dài tay và khi tắm hay vệ sinh cháu thường rất kín đáo đặc biệt là vùng có tổn thương.
Thăm khám thêm trên bệnh nhân chúng tôi phát hiện cháu có kiểu giao tiếp khá đặc biệt. Dường như cháu luôn có độ trễ trong trả lời các câu hỏi và sự trả lời không dứt khoát, đôi lúc không thật chính xác nội dung câu hỏi. Cháu không ngồi ngay xuống ghế mà tỏ thái độ rất thận trọng, thậm chí còn hỏi liệu đã có ai đó ngồi vào ghế hay chưa và chỉ chịu ngồi khi đã được xác nhận là ghế sạch sẽ. Ngoài ra trên bệnh
nhân này ngoài những hành vi tự gây tổn thương trên da là nổi trội, chúng tôi cũng nhận thấy bệnh nhân có những triệu chứng của khác của OCD. Đó là ám ảnh về lây nhiễm các mầm bệnh và có hành vi né tránh.
Ngoài ra theo mẹ cháu kể thì cháu luôn ngăn nắp một cách thái quá đặc biệt là cháu luôn sắp đặt mọi thứ theo một trật tự cứng nhắc và rất khó thay đổi.
Tiền sử cá nhân của cháu hoàn toàn bình thường. Cháu sống trong một gia đình công chức hạnh phúc với cha là công an, mẹ là giáo viên và có một em trai kém 2 tuổi. Từ nhỏ cháu sống cùng cha mẹ. Hỏi về tiền sử trong gia đình thì chúng tôi biết được cô ruột của bệnh nhân mắc một chứng bệnh tâm thần và phải duy trì thuốc thường xuyên nhưng không rõ loại bệnh.
Các xét nghiệm và điện não không cho thấy những dấu hiệu bất thường. Kết quả test Beck 16 điểm, Zung 45 điểm cho kết luận có lo âu và trầm cảm.
Căn cứ vào tiêu chuẩn chẩn đoán của DSM-5, bệnh nhân phù hợp với một trong hai chẩn đoán đó là rối loạn ám ảnh cưỡng bức có hành vi gây tổn thương trên da và rối loạn cưỡng bức gây tổn thương trên da có các triệu chứng của ám ảnh cưỡng bức. Mặc dù vậy chúng tôi lựa chọn chẩn đoán thứ hai vì hành vi gây tổn thương trên da là nổi trội gây sự chú ý và gây ra sự lo lắng, bất an cho bản thân người bệnh và người thân của bệnh nhân. Nó chi phối khá nhiều các hoạt động khác như học tập, vui chơi, giải trí... của bệnh nhân. Mặt khác đây là triệu chứng gây lo lắng và bất an nhiều nhất với gia đình và người thân.
IV. BÀN LUẬN:
Đã có rất nhiều tài liệu cũng như bài viết liên quan đến hành vị tự gây tổn thương trê da. Các tổn thương trên da cũng khá đa dạng về vị trí cũng như hình thức. Có rất nhiều ý kiến cho rằng hành vi kiểu này xuất phát từ căn nguyên tâm lý hoặc cũng có thể là một chứng nghiện, rối loạn nhân cách... . Có thể liệt kê một số giả thuyết về yếu tố nguyên nhân:
Thiếu các kỹ năng đối diện với các yếu tố căng thẳng
Khó khăn trong việc kiểm soát cảm xúc.
Nhằm làm giảm những cảm xúc tiêu cực, lo âu
Lấy cảm giác đau đớn trên cơ thể thay thế cho những đau đớn về cảm xúc.
Làm cho cơ thể đau đớn khi có cảm giác cảm xúc trống rỗng.
Diễn đạt những cảm xúc bên trong ra ngoài.
Thể hiện ra bên ngoài của trầm cảm và những nỗi đau tâm lý.
Tự hành hạ vì những lỗi lầm của chính mình…
Trong phạm vi bài này chúng tôi không bàn luận đến những khái niệm, nguyên nhân được đề cập trên đây. Lý do chúng tôi chọn chẩn đoán này là do lúc
đầu chúng tôi thấy trên bệnh nhân có khá nhiều những triệu chứng của OCD. Điều này khiến chúng tôi hướng đến chẩn đoán là OCD. Tuy nhiên khi đem các triệu chứng gây tổn thương trên da như đã mô tả chúng tôi thấy rất phù hợp với chẩn đoán rối loạn cưỡng bức gây tổn thương trên da (theo DSM-5). Việc sử dụng fluocetine điều trị cho bệnh nhân không chỉ làm thuyên giảm các triệu chứng OCD mà việc dùng
dao lam và kẹp tóc gây tổn thương trên da (vốn đã diễn ra trong một thời gian dài) cũng giảm và dừng lại hoàn toàn cũng là lý do để chúng tôi tin chẩn đoán
của mình.
Trong quá trình thực hành lâm sàng, chúng tôi cũng gặp những bệnh nhân với chẩn đoán tương tự nhưng có lưá tuổi lớn hơn. Phần lớnnhững bệnh nhân có hành vi loại này đều được điều trị bằng fluoxetine và kết quả là khá tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ y tế (2015), Hướng dẫn sử dụng bảng phân loại thống kê quốc tế về bệnh tật và các vấn đề sức khỏe có liên quan đến phiên bản lần thứ 10 (ICD-10), Hà nội.
2. American Psychiatric Asociation (1994), Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 4th edition, Washington, DC.
3. American Psychiatric Asociation (2000), Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 4th edition, Text Revision,Washington, DC.
4. American Psychiatric Asociation (2013), Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th edition, Washington, DC.
5. Carr, E.G., Newsom, C.D., & Binkoff, J.A. (1976). Stimulus control of self-destructive behavior in a psychotic child. Journal of Abnormal Child Psychology, 4, pp: 139-153.
6. Darin D. Dougherty, MD, M.S.c, Sabine Whilhelm, Ph. D., Micheal A. Jenike, MD (2014), Obsessive-compulsive and related disorders, Text book of psychiatry, 14, pp: 235-264.
7. Sadock Benjamin James et al (2007), "Anxiety Disorders",Kaplan & Sadock's Synopsis of Psychiatry: Behavioral Sciences/Clinical Psychitry, 10th Edition, pp: 584-587.
8. Sadock Benjamin James et al (2015), Obsessive-Compulsive
and Related Disorders, Kaplan & Sadock's Synopsis of Psychiatry:
Behavioral Sciences/ Clinical Psychitry, 11th Edition,10, pp