
10/07/2024
BỆNH BẠCH HẦU (DIPHTHERIA)
Bệnh bạch hầu không có gì là mới lạ, bệnh được miêu tả lần đầu tiên từ thế kỷ thứ năm trước CN bởi ông tổ ngành y Hippocrates, sau này được biết là do vi trùng Corynebacterium diphtheria gây ra.
Bệnh có tính lây lan cao chủ yếu từ người qua người, hay gặp trong những nơi có môi trường sống kém vệ sinh, đông đúc. Những người mắc bệnh là những người chưa có miễn dịch với bệnh qua chủng ngừa, xung quanh chúng ta có thể có người mang mầm bệnh nhưng không mắc bệnh (carriers), nếu chúng ta tiếp xúc với người bệnh và người mang mầm bệnh thì dễ mắc bệnh.
Bệnh có tính lây lan cao, có thể gây thành dịch, thường lây qua giọt bắn đường hô hấp, dịch tiết đường hô hấp và dịch tiết từ vết thương ngoài da do bệnh.
Vi trùng gây bệnh có thể xâm lấn hủy diệt mô cục bô tại da, đường hô hấp (hầu họng) và gây tổn thương các cơ quan khác bằng độc tố do nó tiết ra, đặc biệt là cơ tim và hệ thần kinh.
Thời gian ủ bệnh thường từ 2-5 ngày, có khi tới 10 ngày, bệnh có triệu chứng gần tương tự như các bệnh viêm hô hấp trên: sốt, ho, đau họng, khó nuốt, nhức đầu mệt mỏi.
Đặc diểm của bạch hầu là các tổn thương dạng màng dày (giả mạc) bám trên vùng hầu họng, màu xám trắng, nếu bóc tách ra sẽ gây chảy máu và thấy niêm mạc viêm đỏ bên dưới. Đồng thời bệnh thường gây viêm và sưng to tại các hạch bạch huyết vùng cổ mà được miêu tả như là cổ bò (bull’s neck). Các tổn thương tại hầu họng và hiện tượng viêm nặng tại vùng cổ có thể gây chèn ép, hẹp đường hô hấp gây khó thở.
Bạch hầu ở da sẽ có dạng vết loét nhỏ có giả mạc xám trên bề mặt, thường kèm theo nhiễm trùng với S. aureus hay Strep A cùng lúc.
BIẾN CHỨNG:
- Suy hô hấp do chèn ép đường thở
- Tổn thương tim do độc tố: viêm cơ tim, loạn nhịp tim, viêm nội tâm mạc, đây là biến chứng nguy hiểm nhất, đời tui gặp qua 2 bệnh nhân bạch hầu, đều chết vì biến chứng này.
- Thần kinh: tổn thương gây liệt các dây thần kinh vùng mặt, hầu họng, và các dây thần kinh ngoại biên, các biến chứng này thường sẽ phục hồi nếu bệnh nhân sống sót.
ĐIỀU TRỊ:
- Kháng sinh sớm để diệt vi trùng nhằm giảm lượng độc tố: Erythromycin hay Penicillin
- Kháng độc tố càng sớm càng tốt
- Bảo vệ đường hô hấp
- Theo dõi điều trị các biến chứng tim, thần kinh
PHÒNG NGỪA
Phòng ngừa lây lan bằng các áp dụng các biện pháp như các vi trùng gây bệnh đường hô hấp khác, cách ly người bệnh, phòng ngừa giọt bắn đường hô hấp, rửa tay, ect…
Phòng ngừa lâu dài và hiệu quả nhất là tiêm vaccine phòng ngừa. Bệnh bạch hầu từ lâu nằm trong chương trình tiêm ngừa cho trẻ em do tính lây lan cao và mức độ nguy hiểm của nó.
Trẻ em thường được tiêm vaccine DTaP (bạch hầu, uốn ván, ho gà) lúc 2-4-6 tháng, 15 tháng, 4 tuổi, 11 tuổi (Tdap) và nên chích nhắc mỗi 10 năm. Tui thường chích Tdap mỗi 10 năm cho yên tâm.
Tỷ lệ tử vong của bệnh bạch hầu khoảng 5-10%, đặc biệt cao hơn ở trẻ nhỏ hơn 5 tuổi và người lớn hơn 40t. Tuy nhiên nếu phát hiện trễ và không được điều trị sớm với kháng độc tố thì khả năng tử vong cao hơn.
Thằng bạn già mình mới có con mọn, bữa nhắn tin hỏi sao thấy lịch chích ngừa nhiều quá, chích không mậy? Mình nói chích nha, mấy bệnh được chích thường quy đó thường là rất nguy hiểm và dễ lây lan, tốt nhất là không nên bị nó.
Bạn nào có con đã được chích ngừa đầy đủ rồi thì không cần sợ hãi làm gì.
Vậy đi nha
Share tự nhiên.
by