17/06/2022
Phần 1: Sảy thai liên tiếp nhiều lần? Nguyên nhân do đâu?
“Mẹ tròn con vuông” là kết quả mà tất cả mọi người đều mong muốn. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn nhiều vấn đề gây cản trở hay làm giảm thấp tỷ lệ đáng mong muốn này. Sẩy thai liên tiếp (STLT) là một trong số những vấn đề đó.
Thế nào là sảy thai liên tiếp?
Định nghĩa STLT được sử dụng rộng rãi trong các sách giáo khoa là khi sẩy thai liên tục từ 3 lần trở lên (với tuổi thai ≤ 20 tuần hay ≤ 500 gram). Hiệp hội sinh sản và Phôi học người Châu Âu (ESHRE) và Hội Sản phụ khoa hoàng gia Anh cũng định nghĩa STLT khi có 3 lần sẩy thai liên tục trở lên. Tuy nhiên, tùy thuộc vào cách tiếp cận lâm sàng, nhiều tổ chức có những định nghĩa khác nhau. Theo định nghĩa của Hội Y học sinh sản Hoa Kỳ STLT khi sẩy thai lâm sàng liên tục từ 2 lần trở lên.
Sẩy thai liên tiếp không chỉ ảnh hưởng nặng nề tới các cặp vợ chồng mong con mà còn là một trong những thách thức khó khăn trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh sản. Y văn hiện tại chưa có nhiều đồng thuận trong việc xác định nguyên nhân và phương pháp điều trị hiệu quả, cũng như chưa có nhiều khuyến cáo dựa trên bằng chứng. Bên cạnh đó lại tồn tại nhiều thông tin sai lạc, mâu thuẫn nhau gây khó khăn trong việc tiếp cận lâm sàng.
Các nguyên nhân dẫn đến sảy thai liên tiếp
1. Các yếu tố dịch tễ
Thống kê dữ liệu từ nhiều nghiên cứu cho thấy nguy cơ sẩy thai gia tăng sau mỗi lần sẩy thai
Tuổi thai tại thời điểm sẩy có thể gợi ý phần nào nguyên nhân cũng như khả năng tái phát sẩy thai trong thai kỳ tới. Và STLT thường có nguy cơ cao xảy ra ở cùng tuổi thai với thai kỳ trước
Tỷ lệ sẩy thai cũng gia tăng tỷ lệ thuận với tuổi mẹ và cả tuổi người bố.
2. Bất thường giải phẫu liên quan đến tử cung
Nhóm bất thường liên quan đến giải phẫu này bao gồm: Dị dạng bẩm sinh của tử cung và các bất thường mắc phải có khả năng làm gián đoạn dòng cung cấp máu đến nội mạc tử cung (NMTC).
Tử cung có vách ngăn là dị dạng thường gặp nhất trong STLT, với nguy cơ sẩy thai lên đến 76% và tiên lượng thai kỳ thành công kém nhất. Các bất thường bẩm sinh khác như tử cung 1 sừng, tử cung 2 sừng, tử cung đôi làm gia tăng nguy cơ STLT ít hơn
U xơ tử cung (UXTC) cũng được xem có liên quan đến STLT dù không rõ ràng.
Dính buồng tử cung thường do tổn thương NMTC liên quan đến hội chứng Asherman (can thiệp thủ thuật hút nạo buồng tử cung) hay do lao và các bệnh lý nhiễm trùng tử cung khác. Buồng tử cung bị dính nên phần NMTC còn lại không đủ để giúp thai làm tổ do đó có thể dẫn đến sẩy thai.
Cổ tử cung yếu (hở eo, ngắn, tổn thương) gây xóa mở CTC tự nhiên là nguyên nhân gây STLT thường gặp ở tam cá nguyệt II.
3. Hội chứng kháng phospholipid (APS)
Hội chứng kháng phospholipid (APS) là một rối loạn miễn dịch gây huyết khối động - tĩnh mạch và liên quan đến nhiều tai biến sản khoa như sinh non, tiền sản giật, thai chậm tăng trưởng trong tử cung và cả STLT. Không giống các nguyên nhân miễn dịch khác có kết cục sản khoa rất xấu, APS là nguyên nhân có thể điều trị được quan trọng nhất của STLT
4. Nguyên nhân miễn dịch do kháng gen cùng loài (dị miễn)
Miễn dịch do kháng gen cùng loài (dị miễn, alloimmune) cũng được xem xét có liên quan đến STLT.
Điều này thường được giải thích là do hệ thống miễn dịch của mẹ phản ứng quá mức chống lại các kháng nguyên có nguồn gốc từ bố của phôi thai, làm tổn thương nguyên bào nuôi thông qua cơ chế dị ghép với phản ứng kiểu trực tiếp.
5. Nguyên nhân nội tiết và chuyển hóa
Khiếm khuyết pha hoàng thể, hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS), đái tháo đường, bệnh lý tuyến giáp và tăng prolactin máu nằm trong số những rối loạn nội tiết liên quan đến khoảng 17-20% STLT
6. Di truyền
Các bất thường về số lượng và cấu trúc NST được xem là một nguyên nhân gây STLT . Ở các cặp vợ chồng bị STLT, bất thường NST được thấy trong 30-57% mô thai bị sẩy. Tuy nhiên, tỷ lệ bố mẹ có bất thường NST thấp hơn rất nhiều. Tỷ lệ STLT liên quan đến bố mẹ có bất thường NST thường cao hơn khi đi kèm với các yếu tố khác: tuổi mẹ trẻ lúc sẩy thai lần thứ 2, tiền sử có sẩy thai từ 3 lần trở lên, tiền sử gia đình (bố mẹ, anh chị em ruột của vợ hoặc chồng) có sẩy thai từ 2 lần trở lên.
7. Bệnh lý huyết khối và rối loạn các yếu tố đông máu
Mối liên quan giữa STLT và bệnh tăng đông (thrombophilias) là dựa trên lý thuyết các bệnh lý tăng đông làm tăng nguy cơ tạo thành huyết khối trong tuần hoàn nhau thai, thứ phát làm suy giảm chức năng bánh nhau và tăng nguy cơ sẩy thai.
8. Các bệnh lý nhiễm trùng
Các bệnh lý nhiễm trùng bao gồm Ureaplasma urealyticum, Mycoplasma hominus, Chlamydia, Listeria monocytogenes, Toxoplasma gondii, Rubella, Cytomegalovirus, Herpes virus và các tác nhân gây bệnh hiếm gặp khác thường được phát hiện trong môi trường âm đạo – cổ tử cung và trong máu của phụ nữ bị sẩy thai đơn lẻ. Cơ chế giải thích cho nhiễm trùng là nguyên nhân gây sẩy thai bao gồm: nhiễm trùng trực tiếp tử cung, thai nhi, nhau thai; suy giảm chức năng nhau thai; nhiễm trùng mạn tính nội mạc tử cung hay cổ trong CTC; nhiễm trùng ối hay nhiễm trùng do đặt dụng cụ tử cung.
9. Môi trường, lối sống và stress
Các yếu tố môi trường, lối sống, stress hiếm khi được coi là nguyên nhân chính của STLT, tuy nhiên, những nghiên cứu dịch tễ cho thấy có một loạt những yếu tố có thể làm tăng nguy cơ sẩy thai dù những dữ liệu có chất lượng cao còn rất hạn chế.
Phơi nhiễm với các kim loại nặng như chì, thủy ngân, các dung môi hữu cơ, bức xạ ion hóa đã được xác nhận là nguyên nhân gây sẩy thai. Hút thuốc lá, uống rượu bia, cà phê theo nhiều nghiên cứu cho thấy làm tăng nguy cơ sẩy thai phụ thuộc vào liều lượng. Béo phì, theo các nghiên cứu gần đây cho thấy làm tăng nguy cơ sẩy thai và STLT.
10. Nguyên nhân từ nam giới
Các thông số tiêu chuẩn của tinh dịch đồ bao gồm cả hình thái tinh trùng không tiên đoán về nguy cơ STLT
Hiện tượng phân mảnh DNA tinh trùng tăng lên một cách có ý nghĩa ở các cặp vợ chồng STLT. Hiện tượng này thường gặp ở người chồng lớn tuổi, hay có tác động của các yếu tố môi trường bất lợi cho tinh trùng như hơi nóng ngoại sinh, giãn tĩnh mạch thừng tinh, tiếp xúc các chất độc hại hay tăng các gốc oxy hóa tự do (reactive oxygen species, ROS) trong tinh dịch
11. Vấn đề tâm lý
STLT gây ra những sang chấn và ảnh hưởng tâm lý lớn cho các cặp vợ chồng và những ảnh hưởng đó còn kéo dài trong suốt quá trình theo dõi điều trị cũng như trong cả thai kỳ tiếp theo. Những người phụ nữ này thường dễ sinh cảm giác tức giận, trầm cảm, lo lắng, đau buồn, cảm giác tội lỗi. Ở phụ nữ STLT không rõ nguyên nhân còn có thêm tâm lý nặng nề bằng mọi cách phải khám tìm ra nguyên nhân để điều trị.
12. Không rõ nguyên nhân
Sau khi đã đánh giá hết tất cả các nhóm nguyên nhân đã được nhắc tới trong y văn, vẫn còn khoảng 50% trường hợp STLT sẽ không tìm được nguyên nhân.
Trên đây là những thông tin khoa học mong cung cấp được phần nào kiến thức cho các bạn không may gặp tình trạng sảy thai liên tiếp, hy vọng chính các bạn cũng hiểu đc phần nào những gì mình đang gặp phải.