Medical updates

Medical updates Cung cấp thông tin sức khỏe, bệnh học, cập nhật phương pháp điều trị mới

TẠM GIỮ HÌNH SỰ ĐỐI TƯỢNG HÀNH HUNG NỮ ĐIỀU DƯỠNG TẠI BỆNH VIỆN Công an tỉnh Nghệ An đã ra quyết định tạm giữ hình sự đố...
03/06/2025

TẠM GIỮ HÌNH SỰ ĐỐI TƯỢNG HÀNH HUNG NỮ ĐIỀU DƯỠNG TẠI BỆNH VIỆN
Công an tỉnh Nghệ An đã ra quyết định tạm giữ hình sự đối với Trần Tuấn Anh (sinh năm 1997), trú tại xóm 11, xã Nghi Kim, thành phố Vinh hành về hành vi Gây rối trật tự công cộng theo quy định tại khoản 1, Điều 318 Bộ luật hình sự.
Qua điều tra bước đầu, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh xác định: Vào khoảng 23 giờ 30 phút, ngày 31/5/2025, Trần Tuấn Anh cùng người thân đưa ông Tr.V.L. (sinh năm 1972, bố ruột của Tuấn Anh) đến Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An để cấp cứu. Khi đến nơi, Trần Tuấn Anh và nhân viên y tế của xe cấp cứu đưa ông L. vào Khoa, sau đó đến quầy tiếp nhận để làm thủ tục nhập viện cho bố.
Tại đây, chị N.T.A. (sinh năm 1996), trú tại phường Hưng Đông, thành phố Vinh là nhân viên bệnh viện, yêu cầu Trần Tuấn Anh cung cấp thẻ Bảo hiểm y tế và Căn cước công dân của bệnh nhân để làm thủ tục nhập viện. Tuy nhiên, do phía gia đình quên thẻ căn cước công dân của bệnh nhân nên chị A. dặn Tuấn Anh “Khi nào mang đến đầy đủ giấy tờ thì làm thủ tục nhập viện theo quy định”. Quá trình này, chị A. và các y bác sỹ thái độ làm việc bình thường, không xảy ra mâu thuẫn gì với Tuấn Anh và gia đình.
Đến khoảng 23 giờ 50 phút cùng ngày, sau khi được người nhà đưa thẻ căn cước công dân đến, Trần Tuấn Anh cầm lấy rồi đi đến quầy tiếp nhận làm thủ tục nhập viện theo quy định.
Sau khi nhận đầy đủ giấy tờ, chị A. nói với Tuấn Anh: “Anh và người nhà đi ra ngoài đi”. Tuy nhiên, Trần Tuấn Anh không chấp hành mà có những lời lẽ chửi bới, xúc phạm chị A. Chưa dừng lại, đối tượng này còn lao người qua quầy, dùng tay tát vào mặt nữ điều dưỡng A. Sự việc được dừng lại khi bảo vệ và những người xung quanh can ngăn.
Xét thấy, hành vi của Trần Tuấn Anh thể hiện tính chất côn đồ, gây bức xúc, hoang mang, lo lắng, làm ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận bệnh nhân cấp cứu của các y, bác sỹ của Bệnh viện hữu nghị Đa khoa tỉnh Nghệ An nói riêng và các y, bác sĩ nói chung, gây dư luận xấu đến tình hình an ninh trật tự, Văn phòng Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nghệ An đã ra quyết định tạm giữ hình sự đối với đối tượng này về hành vi Gây rối trật tự công cộng.
https://truyenhinhnghean.vn/phap-luat/202506/tam-giu-hinh-su-doi-tuong-hanh-hung-nu-dieu-duong-tai-benh-vien-9d7403d/

🚨DIỄN BIẾN THỰC SỰ CỦA VỤ “NỘP TIỀN MỚI CẤP CỨU” NAM ĐỊNH⁉️Mấy hôm nay, cộng đồng mạng xôn xao về sự việc cho rằng “phải...
08/05/2025

🚨DIỄN BIẾN THỰC SỰ CỦA VỤ “NỘP TIỀN MỚI CẤP CỨU” NAM ĐỊNH⁉️

Mấy hôm nay, cộng đồng mạng xôn xao về sự việc cho rằng “phải nộp tiền mới được cấp cứu” tại một bệnh viện ở Nam Định. 5 nhân viên y tế ngay lập tức bị đình chỉ, và ngay sau đó, một làn sóng công kích dữ dội đổ dồn vào họ trên khắp các nền tảng mạng xã hội.

Thế nhưng, chỉ mới hôm qua, một bài viết khác xuất hiện - được cho là “Kết quả của buổi làm việc hôm qua giữa cán bộ phòng PC03 công an tỉnh và bệnh viện Đk Tỉnh Nam Định” lại cho thấy câu chuyện từ một góc nhìn rất khác: rằng những người bị chỉ trích có thể đã làm đúng quy trình, và đang trở thành nạn nhân của sự hiểu lầm.

BOX Y Khoa xin tổng hợp các diễn biến và góc nhìn nhiều chiều để bạn đọc cùng nhìn lại sự việc với một cái đầu lạnh thay vì một con tim nóng.

_______

📝 Nguyên văn bài viết:

🚨Kết quả của buổi làm việc hôm qua giữa cán bộ phòng PC03 công an tỉnh và bệnh viện Đk Tỉnh Nam Định

1. 16h03 phút: Khoa cấp cứu tiếp nhận 1 người đàn ông và 2 cháu nhỏ, trong đó anh lớn bế em nhỏ vào. Sau khi khai thác qua là bị xe chèn qua người. Điều dưỡng khai thác đã chỉ sang phòng 106. Tại đây điều dưỡng S sau khi khai thác kĩ hơn, nhận thấy đây là ca chấn thương ngực bụng đã dẫn sang phòng 110- PK ngoại. Tại đây, Bs N, mặc dù bệnh nhân chưa đăng kí tên và nộp viện phí, vẫn được thăm khám. Sau khi nhận thấy đây là ca chấn thương ngực bụng ở trẻ em, tiên lượng chưa rõ( vì chưa được siêu âm chụp phim), bs N đã bàn giao sang buồng cấp cứu. Đồng thời điều dưỡng S có hướng dẫn người thanh niên đi kèm đăng kí tên và nộp tiền tạm ứng là 2 triệu. Tuy nhiên người thanh niên nói chỉ có 500K. Điều dưỡng S có nói là 500k hay 50k cũng được, chỉ cần đăng kí tên để có thể làm thêm các xét nghiệm cho cháu
(Tất cả được thể hiện ở trích xuất camera và lời khai của Bs N và điều dưỡng S)

2. Sau khi vào buồng cấp cứu, vì cháu bé nó quấy khóc, nên điều dưỡng ở buồng cấp cứu có hướng dẫn có thể bế cháu ra ngoài vì sợ cháu bóng áo trắng ( có trích xuất camera)

3. Tại đây, bs H khoa CTCH , làm thủ tục nhập nội trú cho cháu. Điều dưỡng Ng (điều dưỡng 1 như báo cáo của sở y tế) khi thấy nhập viện cho cháu, có hỏi điều dưỡng S (điều dưỡng 2 theo báo cáo của sở y tế) tại sao lại phải cho nhập nội trú, điều dưỡng S trả lời vì tạm ứng có 500k nên ko đủ để chụp chiếu siêu âm và chụp CT. Điều dưỡng Ng mới nói 500k thì sao đủ ( có trích xuất đầy đủ)

4. Người thanh niên đi kèm sau khi nghe được cuộc hội thoại này bắt đầu livestream, thể hiện trên livestream khi điều dưỡng Ng và Bs H đang làm thủ tục nhập viện cho cháu là 16h07 phút. Trích xuất camera và bản thân video của người đăng tải đều thể hiện điều đó.

5. Tuy nhiên do mạng in xét nghiệm bị lỗi, nên để giải quyết, điều dưỡng L đã dẫn cháu bé đi siêu âm chụp phim, chụp CT trước khi in được chỉ định( có video trích xuất đầy đủ)

Do đó mới có sự chênh lệch về thời gian in xét nghiệm siêu âm chụp phim, chụp CT so vs văn bản báo cáo của Bs H - phó giám đốc.

_____

🧑🏻‍⚕️Bàn luận:

Liệu sự giận dữ của cộng đồng có đang đi nhanh hơn cả tốc độ xác minh sự thật? Và nếu đúng là như vậy, ai sẽ chịu trách nhiệm cho những tổn thương gây ra?
Cre: box y khoa

Phát hiện mới: Liệu pháp miễn dịch giúp điều trị ung thư hiệu quả hơnMột nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí y khoa...
28/03/2025

Phát hiện mới: Liệu pháp miễn dịch giúp điều trị ung thư hiệu quả hơn
Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí y khoa hàng đầu thế giới đã cho thấy liệu pháp miễn dịch có thể giúp điều trị ung thư hiệu quả hơn. Nghiên cứu này đã được thực hiện bởi các nhà khoa học tại Đại học Y khoa Harvard và đã liên quan đến việc sử dụng các tế bào miễn dịch để tấn công các tế bào ung thư.

Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng liệu pháp miễn dịch đã giúp giảm kích thước của các khối u ung thư và cải thiện thời gian sống của bệnh nhân. Các nhà khoa học tin rằng liệu pháp miễn dịch có thể trở thành một phương pháp điều trị ung thư hiệu quả hơn trong tương lai.

# Tại sao liệu pháp miễn dịch lại hiệu quả?
Liệu pháp miễn dịch hoạt động bằng cách sử dụng các tế bào miễn dịch để tấn công các tế bào ung thư. Các tế bào miễn dịch này đã được lập trình để nhận biết và tiêu diệt các tế bào ung thư.

# Lợi ích của liệu pháp miễn dịch
Liệu pháp miễn dịch có thể mang lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân ung thư, bao gồm:

- Giảm kích thước của các khối u ung thư
- Cải thiện thời gian sống của bệnh nhân
- Giảm các tác dụng phụ của điều trị ung thư truyền thống

# Tương lai của liệu pháp miễn dịch
Liệu pháp miễn dịch đang được nghiên cứu và phát triển để trở thành một phương pháp điều trị ung thư hiệu quả hơn. Các nhà khoa học tin rằng liệu pháp miễn dịch có thể trở thành một phần quan trọng của điều trị ung thư trong tương lai.

# Nguồn:
- "Liệu pháp miễn dịch giúp điều trị ung thư hiệu quả hơn" - Tạp chí Y khoa Harvard
- "Liệu pháp miễn dịch: Một phương pháp điều trị ung thư mới" - Tạp chí Ung thư Quốc tế

Hãy theo dõi chúng tôi để cập nhật các tin tức y khoa mới nhất!

Viêm da quanh miệng1.ĐẠI CƯƠNGViêm da quanh miệng (POD) là bệnh da thường biểu hiện với nhiều sẩn viêm nhỏ xung quanh mi...
23/02/2025

Viêm da quanh miệng
1.ĐẠI CƯƠNG
Viêm da quanh miệng (POD) là bệnh da thường biểu hiện với nhiều sẩn viêm nhỏ xung quanh miệng, mũi hoặc mắt. Mặc dù tên gọi “viêm da quanh miệng” gợi ý đến tình trạng viêm da dạng chàm chủ yếu, POD thường có biểu hiện lâm sàng giống với trứng cá hay phát ban giống trứng cá đỏ, có thể kèm theo biểu hiện viêm da dạng chàm.
Cơ chế bệnh sinh của POD chưa rõ ràng; bao gồm yếu tố nội sinh và ngoại sinh, các yếu tố kích thích và corticosteroid tại chỗ có thể góp phần gây ra rối loạn này. Các thuốc chống viêm và kháng sinh tại chỗ hoặc toàn thân thường được lựa chọn điều trị.
POD được mô tả lần đầu tiên vào năm 1957 với tên gọi ” viêm da tiết bã nhạy cảm với ánh sáng”. Sau đấy, người ta ít nhận thấy hơn mối liên hệ giữa bệnh với việc tiếp xúc ánh sáng. Năm 1964, “viêm da quanh miệng” đã được giới thiệu như một thuật ngữ ưu tiên để chỉ căn bệnh này.
POD gặp ở mọi chủng tộc và dân tộc, thường gặp ở nữ giới từ 16-45 tuổi, POD cũng có thể xảy ra ở những người lớn tuổi, nam giới và trẻ em. Một nghiên cứu hồi cứu trên 222 trẻ em bị POD cho thấy độ tuổi biểu hiện bệnh trung bình là 6,6 tuổi, thường gặp ở trẻ gái nhiều hơn trai. POD có thể phát triển ở trẻ sơ sinh dưới ba tháng tuổi. Trong một nghiên cứu hồi cứu, 46/79 trẻ em và thanh thiếu niên ( chiếm 58%) mắc POD là nữ.
Cơ chế bệnh sinh của POD vẫn chưa được hiểu rõ. Sự thiếu hụt chức năng hàng rào bảo vệ da và cơ địa dị ứng đã được phát hiện với tần suất ngày càng tăng ở bệnh nhân POD. Sử dụng corticosteroid tại chỗ thường được báo cáo liên quan đến POD đặc biệt là corticoid tại chỗ loại mạnh, với tiền sử nổi mụn nước trên mặt có sẩn và vảy, ban đầu đáp ứng corticosteroid tại chỗ, nhưng tái phát hoặc trầm trọng hơn khi tiếp tục sử dụng hoặc cố gắng ngừng điều trị corticosteroid. Mối liên quan giữa POD và corticosteroid vẫn chưa rõ ràng. Một số tác giả cho rằng tổn thương hàng rào biểu bì do corticosteroid gây ra có thể là một yếu tố góp phần. Một số yếu tố khác được cho là có mối liên quan với POD, bao gồm kem đánh răng có chứa fluor, dưỡng ẩm và mỹ phẩm, vi khuẩn fusobacteria, nấm Candida albicans, biến động nội tiết tố ở phụ nữ và liệu pháp tránh thai.
2. LÂM SÀNG
POD lành tính và thường tự giới hạn. Ở một số bệnh nhân, POD tự khỏi trong vòng vài tháng mà không cần điều trị bằng thuốc, trong khi ở những bệnh nhân khác có thể tồn tại dai dẳng trong vài năm. Sử dụng corticosteroid tại chỗ làm nặng thêm tình trạng bệnh.
2.1 Viêm da quanh miệng cổ điển.
POD thường biểu hiện bằng nhiều nốt sẩn, sẩn đỏ, sẩn mụn nước, có thể có vảy, kích thước từ 1-2 mm. Các sẩn viêm và đóng vảy của POD thường gặp ở vùng quanh miệng, nhưng không thấy ở vùng hẹp xung quanh viền môi. Tổn thương của POD có thể gặp ở vùng quanh mũi và quanh hốc mắt. Trong một nghiên cứu hồi cứu trên 79 trẻ em và thanh thiếu niên bị POD, các tổn thương quanh miệng, quanh mũi hoặc quanh hốc mắt lần lượt có mặt ở 70, 43 và 25% bệnh nhân, có thể đi kèm với tổn thương ở những vùng khác như má, cằm, trán, cổ.
POD có thể không có triệu chứng hoặc kèm theo cảm giác châm chích hoặc bỏng rát từ nhẹ đến trung bình ở các vùng bị ảnh hưởng. Các tổn thương da thường tự khỏi mà không để lại sẹo.
2.2 Viêm da quanh miệng có u hạt.
Là một biến thể lâm sàng của POD thường xảy ra ở trẻ em trước tuổi dậy thì, thường gặp ở trẻ em da đen vùng biển Afro-Caribbean. Trẻ thường phát triển nhiều sẩn viêm nhỏ, màu thịt, nâu đỏ hoặc nâu vàng ở các vùng quanh miệng, quanh mũi hoặc mắt. Thường không có sẩn mủ và sẩn nước, và đôi khi các vị trí khác ngoài mặt cũng bị ảnh hưởng.
3. CHẨN ĐOÁN
Chẩn đoán POD dựa vào tiền sử bệnh và thăm khám lâm sàng. Sự xuất hiện của nhiều sẩn viêm, sẩn mụn nước hoặc sẩn mụn mủ tập trung thành đám trên da quanh miệng, quanh mũi hoặc quanh mắt gợi ý chẩn đoán này. Các đặc điểm hỗ trợ chẩn đoán POD:
Vùng da gần sát với viền môi.
Có các đặc điểm của viêm da dạng chàm.
Cảm giác bỏng rát hoặc châm chích.
Tiền sử sử dụng corticosteroid tại chỗ hoặc dạng hít, bùng phát sau khi ngừng sử dụng.
Không có nhân comedone.
Sinh thiết da hiếm khi được chỉ định, chủ yếu để chẩn đoán phân biệt. Đặc điểm mô bệnh học của POD không đặc hiệu và thay đổi tùy theo loại tổn thương. Xét nghiệm huyết thanh học không cần thiết để chẩn đoán POD.
4. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
Trứng cá thông thường: sẩn viêm hoặc sẩn mụn mủ có nhân comedone. Sự xuất hiện nhân comedone trên da ủng hộ chẩn đoán trứng cá. Trứng cá và POD có thể cùng tồn tại. Không giống như mụn trứng cá, POD thường không để lại sẹo.
Trứng cá đỏ: sẩn viêm và mụn mủ phân bố chủ yếu ở vùng trung tâm mặt, có thể có ban đỏ và giãn mạch, tổn thương thường xuất hiện ở vùng má hơn so với quanh miệng.
Viêm da dầu: thường gặp với các ban đỏ, vảy da vùng rãnh mũi má, hiếm khi xuất hiện sẩn mụn mủ và ít gặp ở các vùng da quanh miệng. Viêm da dầu thường xuất hiện tổn thương ở các vị trí khác như: rãnh cung lông mày, da dầu, vùng ngực lưng,…
Viêm da tiếp xúc dị ứng: ban đỏ, sẩn đỏ, mụn nước, có thể có vảy da hoặc vảy tiết. Vị trí thường khởi đầu ở vùng tiếp xúc với dị nguyên và thường gây ngứa và không đáp ứng với điều trị bằng kháng sinh thông thường.
Viêm da tiếp xúc kích ứng: có thể thấy các sẩn, mụn nước, vảy, ban đỏ hoặc phù nề. Bệnh nhân thường có cảm giác nóng rát nhiều tại tổn thương, thay vì ngứa. Tiền sử tiếp xúc có giá trị để xác định chẩn đoán.
Chốc: thường gặp ở vị trí quanh mũi. Tổn thương thường là mụn nước, vảy tiết, vết trợt trên da, hiếm gặp các tổn thương sẩn mụn mủ giống trứng cá. Nhuộm gram và nuôi cấy vi khuẩn giúp xác định chẩn đoán.
Nấm thân hoặc nấm râu có thể xuất hiện với các sẩn viêm hoặc mụn mủ trên mặt. Không giống như POD, nấm da có sự phân bố không đối xứng.
5. ĐIỀU TRỊ
5.1 Điều trị chung: Loại bỏ corticosteroid và các chất kích ứng da được coi là một biện pháp điều trị quan trọng cho tất cả bệnh nhân POD.
Bệnh thường bùng phát mạnh hơn sau khi ngưng sử dụng corticoid tại chỗ. Có thể giảm khả năng bùng phát bằng cách chuyển sử dụng corticosteroid tại chỗ loại mạnh hoặc trung bình sang loại yếu (ví dụ, hydrocortisone 1%) hoặc giảm dần tần suất sử dụng corticosteroid trước khi ngừng điều trị.
Giảm tiếp xúc với các yếu tố kích ứng da bao gồm:
Làm sạch da nhẹ nhàng bằng chất tẩy rửa không chứa hương liệu, không xà phòng ngay sau đó rửa sạch hoàn toàn với nước.
Hạn chế sử dụng các sản phẩm bôi ngoài da (ví dụ: mỹ phẩm, kem chống nắng, chất làm mềm da)
Khi tình trạng bệnh ổn định, có thể từ từ sử dụng lại các sản phẩm chăm sóc da (ví dụ: một sản phẩm mỗi tuần). Người bệnh cần chú ý theo dõi phản ứng của da với từng sản phẩm và ngưng sử dụng ngay khi có các đấu hiệu bất thường.
5.2 Viêm da quanh miệng thể nhẹ:
POD nhẹ khi tổn thương gặp với số lượng ít ở vùng da mặt và không gây khó chịu nhiểu cho bệnh nhân. Thuốc ức chế calcineurin tại chỗ và thuốc kháng sinh tại chỗ là lựa chọn điều trị chính.
Thuốc ức chế calcineurin tại chỗ: bao gồm pimecrolimus và tacrolimus tại chỗ. Dữ liệu hiệu quả điều trị bằng pimecrolimus nhiều hơn so với tacrolimus và thuốc có dạng cream thích hợp sử dụng vùng mặt hơn so với dạng mỡ của tacrolimus.
Cách dùng: bôi 2 lần/ ngày. Dạng bào chế thuốc mỡ 0,03% hoặc 0,1%. Nồng độ 0,03%, thường được sử dụng cho trẻ em. Lâm sàng thường cải thiện trong 1 tháng đầu dùng thuốc.
Erythromycin tại chỗ: bôi 2 lần/ngày. Sự cải thiện thường rõ ràng trong vòng 4-8 tuần.
Metronidazole tại chỗ: metronidazole (0,75% hoặc 1%) 1 lần/ngày trong ít nhất tám tuần.
Nghiên cứu trên 108 bệnh nhân trong 8 tuần sử dụng Metronidazole 1% với tetracycline uống (250 mg x 2 lần / ngày). Cải thiện lâm sàng được quan sát thấy cả 2 nhóm, nhưng đáp ứng của tổn thương sẩn chậm hơn với liệu pháp metronidazole
Những bệnh nhân không đáp ứng trong vòng 4 – 8 tuần với pimecrolimus, erythromycin hoặc metronidazole tại chỗ có thể chuyển sang các liệu pháp toàn thân.
5.3 Viêm da quanh miệng mức độ trung bình đến nặng.
5.3.1 Thanh thiếu niên và người lớn.
Nhóm tetracyclin đường uống là liệu pháp ưu tiên cho thanh thiếu niên hoặc người lớn bị POD từ trung bình đến nặng. Erythromycin uống là lựa chọn thay thế cho những bệnh nhân không dung nạp được tetracyclin.
Nhóm tetracyclin đường uống: tetracyclin, doxycycline, minocycline được lựa chọn ưu tiên điều trị POD, cơ chế vẫn chưa được biết rõ, tác dụng chống viêm có thể giải thích cho hiệu quả của chúng.
Cách dùng: thời gian duy trì ít nhất 8 tuần.
Tetracycline (250 – 500 mg x 2 lần / ngày)
Doxycycline (50 – 100 mg x 2 lần / ngày hoặc 100 mg x 1 lần / ngày)
Minocycline (50 – 100 mg x 2 lần / ngày hoặc 100 mg x 1 lần / ngày)
Tetracycline thường dung nạp tốt. Rối loạn tiêu hóa là một tác dụng phụ thường gặp. Các tác dụng phụ khác bao gồm nhạy cảm với ánh sáng và rối loạn sắc tố da.
Macrolide: sử dụng trong trường hợp không dung nạp tetracycline.
Erythromycin 500mg 2 lần/ ngày. Dùng chung với thức ăn có thể giúp giảm khó chịu ở đường tiêu hóa.
5.3.2.Trẻ em.
Ưu tiên sử dụng thuốc bôi tại chỗ trước trên đối tượng trẻ em.
Mặc dù trẻ lớn hơn có thể được điều trị bằng tetracycline, erythromycin đường uống được ưu tiên cho trẻ nhỏ và những bệnh nhân khác không dung nạp được tetracycline. Tetracyclin chống chỉ định ở trẻ em dưới tám tuổi vì có tác dụng phụ lên răng và xương vĩnh viễn. Mặc dù thời gian điều trị tetracycline dưới 22 ngày thường được coi là an toàn ở trẻ nhỏ, các liệu trình dài hơn thường được sử dụng cho POD.
Liều tối ưu của erythromycin cho POD chưa được thiết lập. Có thể sử dụng erythromycin 40 mg / kg ngày chia 2 -3 lần, tối đa 1000mg/ ngày cho trẻ > 4 tuổi. Dùng chung với thức ăn giúp giảm khó chịu ở đường tiêu hóa.
Azithromycin uống có thể là một giải pháp thay thế trong trường hợp không dung nạp erythromycin; azithromycin tỏ ra có hiệu quả đối với POD trong một loạt trường hợp.
Liệu trình và theo dõi – Kháng sinh đường uống thường sử dụng trong 8 tuần.
Các liệu pháp khác – Dữ liệu hạn chế cho thấy rằng các liệu pháp khác có thể có hiệu quả đối với POD bao gồm : ivermectin, azelaic acid 20%, clindamycin tại chỗ, hydrocortisone 1% lotion, tetracycline tại chỗ, gel adapalene 0,1%, và sulfacetamide-lưu huỳnh tại chỗ kết hợp với tetracycline uống.
Hiệu quả của isotretinoin đường uống đối với bệnh viêm da quanh miệng thể u hạt đã được báo cáo trên một số case lâm sàng.
Liệu pháp quang động có thể là một lựa chọn khác để điều trị POD. Sự can thiệp này hiệu quả hơn gel clindamycin trong một nghiên cứu trên 21 bệnh nhân. Tuy nhiên, bảy bệnh nhân đã bỏ nghiên cứu do kích ứng da liên quan đến liệu pháp quang động, và ba bệnh nhân phát triển chứng tăng sắc tố sau viêm liên quan đến điều trị.
6. TÓM TẮT VÀ KIẾN NGHỊ
Viêm da quanh miệng (POD) thường gặp ở nữ giới trẻ, có thể gặp ở người lớn tuổi, nam giới và trẻ em.Cơ chế bệnh sinh chưa được hiểu rõ. Sử dụng corticosteroid tại chỗ được báo cáo làm nặng thêm và kéo dài tình trạng bệnh.
Biểu hiện là các sẩn nhỏ, viêm, sẩn hoặc mụn mủ và đóng vảy xung quanh miệng, mũi, mắt.
Viêm da quanh miệng u hạt là một biến thể của POD thường thấy ở trẻ em trước tuổi dậy thì. Mô bệnh học cho thấy hình ảnh thâm nhiễm u hạt ở những bệnh nhân này.
Chẩn đoán POD thường dựa vào hỏi và khám bệnh. Đặc điểm mô bệnh học POD không đặc hiệu, sinh thiết da hiếm khi cần thiết.
Điều trị POD bao gồm việc ngừng sử dụng corticosteroid tại chỗ và tránh các chất kích ứng da.
Người lớn và trẻ em bị POD nhẹ nên sử dụng liệu pháp tại chỗ (Độ 2C), bao gồm pimecrolimus tại chỗ, erythromycin tại chỗ và metronidazole tại chỗ. Tacrolimus tại chỗ là một lựa chọn bổ sung cho liệu pháp.
Người lớn mắc POD thể trung bình đến nặng nên điều trị bằng tetracycline uống (Độ 2B). Ví dụ bao gồm tetracycline, doxycycline và minocycline. Đáp ứng với liệu pháp kháng sinh đường uống thường chậm; một đợt điều trị kéo dài tám tuần.
Trẻ em < tám tuổi mắc POD từ trung bình đến nặng không đáp ứng thuốc bôi, điều trị bằng erythromycin đường uống (Độ 2C). Azithromycin uống là một lựa chọn thay thế. Trẻ nhỏ không nên điều trị bằng tetracycline uống do ảnh hưởng đến sự phát triển của răng và xương.

Trong Spider-Man (2002), tuy bị một con nhện độc cắn nhưng Peter không chịu đi viện mà quyết định đắp chăn nằm ngủ (hoặc...
27/12/2024

Trong Spider-Man (2002), tuy bị một con nhện độc cắn nhưng Peter không chịu đi viện mà quyết định đắp chăn nằm ngủ (hoặc chờ chết), đó là vì nếu con nhện không giết được Peter thì viện phí ở Mỹ cũng sẽ giết cậu ấy.

Hội chứng Raynaud ( Raynaud Syndrome)1.Đại cương.Hội chứng Raynaud là hiện tượng co thắt của các động mạch làm giảm dòng...
22/12/2024

Hội chứng Raynaud ( Raynaud Syndrome)

1.Đại cương.
Hội chứng Raynaud là hiện tượng co thắt của các động mạch làm giảm dòng máu nuôi mô cơ quan. Thường biểu hiện ở các ngón tay, và ít xảy ra ở các ngón chân. Hiếm khi xảy ra ở mũi, tai, hoặc môi. Hiện tượng này khiến vùng bị ảnh hưởng chuyển sang màu trắng và sau đó là màu xanh, thường kèm theo cảm giác tê hay đau. Khi được tưới máu trở lại, các vùng này chuyển sang màu đỏ và nóng rát. Hội chứng Raynaud thường kéo dài vài phút, nhưng đôi khi có thể kéo dài đến vài giờ, được kích hoạt bởi lạnh hay cảm xúc căng thẳng.
Hiện tượng Raynaud được đặt tên theo bác sĩ người Pháp Maurice Raynaud, người đã mô tả hiện tượng này đầu tiên vào năm 1862. Tỷ lệ mắc bệnh khoảng 4% dân số, gặp nhiều ở vùng khí hậu lạnh, khởi phát ở độ tuổi 15-30 tuổi, tỷ lệ nữ/nam = 9/1. Raynaud thứ phát thường gặp ở người lớn tuổi
2.Phân loại:
2.1 .Raynaud nguyên phát, khi nguyên nhân không rõ. Chỉ có bất thường về chức năng mạch máu.
2.2 Raynaud thứ phát xảy ra do các bệnh lí sẵn có, có cả bất thường về cấu trúc và chức năng mạch máu,

Thường gặp trong các bệnh mô liên kết (50%) như : xơ cứng bì, lupus ban đỏ hệ thống, hội chứng Sjogren và hội chứng antiphospholipid.

Do sử dụng thuốc như: thuốc điều trị đau nửa đầu, interferon alpha, chẹn beta giao cảm, cyclosporine, thuốc tránh thai,..

Nghề nghiệp phải tiếp xúc với rung động quá mức từ máy móc, thường gặp ở nam giới. Phơi nhiễm với polyvinyl clorua, chấn thương lạnh do công việc,..

Bệnh nhân trên 60 tuổi, bệnh mạch máu tắc nghẽn là nguyên nhân thường gặp của hiện tượng Raynaud. Các nguyên nhân gây bệnh tắc nghẽn mạch máu bao gồm viêm tắc mạch do huyết khối, bệnh lý đái tháo đường hoặc xơ vữa động mạch.

Nhiễm trùng liên quan đến hiện tượng Raynaud thứ phát bao gồm parvovirus B19, cytomegalovirus, viêm gan B và viêm gan C.

Các nguyên nhân khác: đa xơ cơ, đa hồng cầu, viêm não cơ hoặc bệnh ác tính..

3.Lâm sàng.
Hiện tượng này thường gặp ở các ngón tay, đối xứng 2 bên, đặc biệt là ngón trỏ và ngón giữa, có thể thấy ở ngón chân, lưỡi, mũi, tai, tiến triển qua 3 giai đoạn:
– Giai đoạn 1: Giai đoạn“trắng, lạnh” do co thắt tiểu động mạch nên mạng lưới mao quản không nhận được máu đến đầu ngón.
– Giai đoạn 2: Giai đoạn “Xanh tím” do ứ trệ máu tại các tiểu tĩnh mạch (mô phù nề do thiếu máu gây chèn ép) nên trên lâm sàng biểu hiện đầu ngón tay xanh tím và đau buốt.
– Giai đoạn 3: Giai đoạn “đỏ, nóng” do mở các cơ tròn tiền mao mạch, máu đến nhanh và nhiều làm các đầu ngón tay trở nên nóng đỏ.


Hiện tượng Raynaud thường khởi phát khi tiếp xúc với lạnh, căng thẳng, stress, và giảm khi không còn tiếp xúc nên bệnh thường nặng hơn về mùa đông và giảm nhẹ vào mùa hè.
Bệnh nhân thường cảm giác tê bì, có thể đau buốt đầu ngón.
Trường hợp Raynaud kéo dài, nặng có thể dẫn tới biến chứng: Sẹo rỗ, loét, hoại tử đầu ngón.
Bài viết do Cập nhật Y khoa- Medical updates sưu tầm

4.Cận lâm sàng.
Capillaroscopy – soi mao mạch nền móng là phương tiện thường được sử dụng nhất để phân biệt hiện tượng Raynaud là nguyên phát hay thứ phát.
– Raynaud nguyên phát: không phát hiện sự thay đổi về số lượng, hình thái, cấu trúc các vi mạch đầu ngón.
– Raynaud thứ phát: quan sát thấy sự thay đổi về hình thái, cấu trúc, số lượng của các mao mạch đầu ngón, có thể thấy điểm xuất huyết, tắc mạch, giãn mạch,..

Xét nghiệm máu: thường được chỉ định tỏng trường hợp nghi ngờ Hội chứng Raynaud thứ cấp, xét nghiệm kháng thể cẩn được chỉ định để loại trừ bệnh lí hệ thống.Videocapillaroscopy cho phép quan sát và ghi lại sự thay đổi của mao mạch đầu ngón, ngày nay được ứng nhiều hơn cho phép phát hiện thay đổi mạch máu ở giai đoạn sớm.
Xét nghiệm nước tiểu: loại từ tổn thương thận do lupus.
Đo huyết áp.
Các xét nghiệm khác để loại trừ Raynaud thứ cấp.
5.Điều trị.
Mục đích: hạn chế tần suất và mức độ nghiêm trọng của các cơn co mạch, ngăn ngừa thiếu máu cục bộ mô.
Đáp ứng điều trị dựa vào thang điểm Raynaud Condition Score (RCS)
5.1 Điều trị không dùng thuốc:
Tư vấn cho bệnh nhân các yếu tố làm nặng bệnh và thay đổi lối sống là điều đầu tiên cho tất cả các trường hợp XCBHT. Các yếu tố này bao gồm:

Tránh lạnh: hạn chế dùng nước và ra ngoài vào mùa lạnh, sử dụng các phương tiện phòng hộ như găng tay, tất chân, mặc ấm. Ngoài ra, vào mùa nóng cũng cần khuyên bệnh nhân tránh việc thay đổi nhiệt độ đột ngột.

Hạn chế cảm xúc: tránh các cảm xúc mạnh kể cả vui hay buồn. Bệnh nhân XCBHT thường rất lo lắng về bệnh và tình trạng da căng cứng gây ngứa, khó chịu, mất ngủ. Nếu cần thiết có thể kê thêm kem dưỡng ẩm, thuốc an thần cho bệnh nhân.

Tránh chấn thương, nhiễm khuẩn: Khuyên bệnh nhân có môi trường sống an toàn, không lao động nặng, tránh các công việc có thể gây chấn thươngngoài da.

Bỏ thuốc lá.

5.2 Điều trị dùng thuốc.
Trong trường hợp cơn co mạch ảnh hưởng tới công việc, chất lượng cuộc sống không đáp ứng với điều trị không dùng thuốc thì cần sử dụng:
5.2.1 Lựa chọn thứ nhất: các thuốc chẹn kênh calci.
Nifedipin thường được sử dụng nhất do nó có dạng phóng thích chậm, hạn chế tác dụng phụ gây giãn mạch.
Người ta cho rằng tác dụng chính của Nifedipin trên cơ trơn mạch máu đầu ngón, Nifedipin làm tăng lưu lượng máu ở da tăng từ 50-150% ở người bình thường, 1 số nghiên cứu chỉ ra vai trò ức chế chức năng và khả năng ngưng kết tiểu cầu bình thường của nifedipin. Nồng độ beta-thromboglobulin trong huyết tương ( một chất kích thích hoạt hóa tiểu cầu) tăng đáng kể ở bệnh nhân có hội chứng Raynoud (53,8 ± 7,6 ng / ml) so với dân số đối chứng bình thường (27,0 ± 3,1 ng / ml) (p

Address

Hanoi
10000

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Medical updates posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Practice

Send a message to Medical updates:

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram

Category