Vật Lý Trị Liệu - Phục Hồi Chức Năng Chấn Thương Chỉnh Hình Nhi Khoa

  • Home
  • Vietnam
  • Hanoi
  • Vật Lý Trị Liệu - Phục Hồi Chức Năng Chấn Thương Chỉnh Hình Nhi Khoa

Vật Lý Trị Liệu - Phục Hồi Chức Năng Chấn Thương Chỉnh Hình Nhi Khoa Contact information, map and directions, contact form, opening hours, services, ratings, photos, videos and announcements from Vật Lý Trị Liệu - Phục Hồi Chức Năng Chấn Thương Chỉnh Hình Nhi Khoa, Paediatrician, Khu đô thị Đại Kim/Hoàng Mai/Hanoi, Hanoi.

14/12/2022

GIỚI THIỆU VỀ CHỨNG LOẠN SẢN XƯƠNG HÔNG.

Loạn sản xương hông ở trẻ sơ sinh
Lý tưởng nhất là DDH được phát hiện qua bệnh sử và khám sức khỏe định kỳ trong giai đoạn sơ sinh. Các câu hỏi cho cha mẹ về các yếu tố rủi ro có thể rất quan trọng. Sàng lọc lâm sàng là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán với các cuộc kiểm tra hông năng động được thực hiện khi sinh và các lần khám bác sĩ nhi khoa tiếp theo trong suốt thời thơ ấu. Ortolani TEST và Barlow TEST nên được thực hiện trong mỗi lần kiểm tra.

Nghiệm pháp Ortolani là một phần của khám sức khỏe đối với chứng loạn sản phát triển của hông, cùng với thao tác Barlow. Cụ thể, nghiệm pháp Ortolani dương tính khớp hông trật ra sau.
Nghiệm pháp xác định dương tính khi nghe thấy một tiếng "cạch" đặc biệt và cảm nhận được khi đầu xương đùi di chuyển về phía trước, chui vào hố ổ cối của xương chậu Đây là một phần của bài kiểm tra tiêu chuẩn cho trẻ sơ sinh, khuyến nghị nên thực hiện ở giai đoạn đầu

TEST Ortolani: Bàn tay của người kiểm tra đặt trên đầu gối của trẻ với ngón tay cái đặt trên đùi ở giữa và các ngón tay đặt nhẹ nhàng lên trên đùi bên và vùng trochanter lớn hơn. Khi dạng ra chậm, khớp háng bị trật khớp và co rút được sẽ giảm đi kèm theo tiếng “cục cục” có thể sờ thấy được mô tả.

Thao tác Barlow được thực hiện bằng cách hướng hông vào trạng thái khép nhẹ và dùng ngón tay cái tạo một áp lực nhẹ về phía trước. Nếu khớp háng không ổn định, chỏm xương đùi sẽ trượt qua mép sau của ổ cối, một lần nữa tạo ra cảm giác trật khớp hoặc trật khớp có thể sờ thấy được.

Ở trẻ sơ sinh, mức độ không ổn định có thể được mô tả là:
1. Trật khớp và co rút (+ Ortolani)
2. Trật khớp và không thể điều chỉnh (- Ortolani)
3. Trật khớp (+ Barlow)
4. Subluxed (hông không ổn định nhẹ hoặc lỏng lẻo với thao tác – Barlow).

Biểu hiện chứng loạn sản xương hông ở trẻ sơ sinh từ 2 tháng tuổi trở lên.
Sau 2-3 tháng tuổi, nghiệm pháp Ortolani và nghiệm pháp Barlow ít nhạy cảm hơn nhưng một số dấu hiệu khám sức khỏe khác trở nên rõ ràng hơn:

- Loạn sản một bên biểu hiện dưới dạng rút ngắn không đối xứng ở bên trật khớp (dấu hiệu Galeazzi)
- Chân ở bên bị ảnh hưởng có thể quay ra ngoài
- Cơ khép hông chặt/giảm giạng hông
- Nếp gấp đùi hoặc mông không đối xứng
- Khoảng cách giữa hai chân có thể trông rộng hơn bình thường.

Biểu hiện chứng loạn sản xương hông ở trẻ biết đi

- Co cứng cơ gấp hông nhẹ do chứng loạn sản hai bên có thể tạo ra chứng phì đại ở cột sống thắt lưng và dáng đi lạch bạch
Trật khớp một bên có thể tạo ra dáng đi ngắn và/hoặc khập khiễng ở trẻ đang tập đi
- Trong một số ít trường hợp, khám và sàng lọc sớm sẽ không phát hiện ra chứng loạn sản đang phát triển của ổ cối và chỏm xương đùi sẽ từ từ trượt ra ngoài và không được phát hiện cho đến khi xác định được chân đi khập khiễng hoặc chân ngắn. Vì cơn đau không phổ biến ở trẻ em nên cần phải quan sát kỹ nếu không chẩn đoán có thể bị bỏ sót.

Biểu hiện chứng loạn sản xương hông ở trẻ vị thành niên và thanh thiếu niên

- Biểu hiện đau hông và chân có thể là mãn tính và/hoặc trầm trọng hơn do chấn thương
- Nếu từ trung bình đến nặng, có thể dẫn đến bệnh thoái hóa khớp háng và biến dạng nếu không được điều trị.

Chứng loạn sản xương hông được đánh giá như thế nào?

Trẻ em dưới 6 tháng tuổi: Ngoài khám sàng lọc lâm sàng, siêu âm (siêu âm) là kỹ thuật được ưu tiên. Mặc dù không nên sàng lọc tất cả trẻ sơ sinh ở Hoa Kỳ, nhưng trẻ sơ sinh có các yếu tố nguy cơ đã được xác định hoặc các xét nghiệm nghi vấn nên được sàng lọc thường xuyên. Với một cuộc kiểm tra bình thường, việc kiểm tra siêu âm nên được trì hoãn cho đến ít nhất 4-6 tuần, khi sự trưởng thành của hông cải thiện độ đặc hiệu của bài kiểm tra. Siêu âm cũng được sử dụng để ghi lại quá trình giảm và theo dõi sự cải thiện hoặc trưởng thành của khớp háng loạn sản sau điều trị.

Trẻ em từ 6 tháng tuổi trở lên: Đánh giá bằng X-quang đơn giản được sử dụng. Trên phim chụp X-quang AP, các đường định vị chỏm xương đùi trong mối quan hệ với ổ cối-- Hilgenreiner's, Perkin's, và chỉ số ổ cối--có thể được vẽ và đo. Siêu hình xương đùi gần nhất phải nằm ở giữa đường Perkin, trong góc phần tư bên trong và bên dưới của lưới kết quả. Ở khớp háng loạn sản, chỉ số ổ cối bình thường (khoảng 25 đến 27 độ) tăng lên. Các phát hiện khác bao gồm sự gián đoạn của đường Shenton, sự chậm trễ trong quá trình cốt hóa đầu xương và/hoặc sự xuất hiện “giọt nước mắt” mở rộng hoặc bị trì hoãn. Các phép đo và chụp X quang đơn giản cũng được sử dụng để theo dõi sự phát triển và trưởng thành của hông.

Chứng loạn sản xương hông được điều trị như thế nào?

Sau khi xác định được DDH, nên nhanh chóng giới thiệu đến bác sĩ chỉnh hình nhi khoa.

Sơ sinh đến 6 tháng: Hông chưa trưởng thành, ổn định (Barlow âm tính) trở nên bình thường thì không cần điều trị. Hông dương tính với Barlow khi mới sinh cũng có thể trở nên ổn định trong 3 tuần đầu đời; do đó, điều trị có thể bị trì hoãn. Trong cả hai trường hợp, cần phải theo dõi chặt chẽ và khám sức khỏe định kỳ, cộng với việc đến Hoa Kỳ muộn hơn để ghi lại sự ổn định và phát triển bình thường của hông.

Với hông không ổn định, Ortolani dương tính, cần phải điều trị sớm. Hạ hông được định vị ở tư thế gập và dạng nhẹ để kích thích sự phát triển khớp bình thường, thường được thực hiện thông qua dây nịt Pavlik, một nẹp động định vị đùi để cho phép và duy trì việc giảm hông. Trẻ sơ sinh được theo dõi hai tuần một lần để điều chỉnh dây đeo. Tiến độ được theo dõi và xác minh mức giảm với các đánh giá tiếp theo của Hoa Kỳ. Điều trị bằng Pavlik tiếp tục cho đến khi các thông số của Hoa Kỳ trở lại bình thường và khớp háng ổn định khi khám, trung bình là 2-3 tháng sau đó. Theo dõi thông qua sự trưởng thành của bộ xương sau đó được nhấn mạnh.

6 tháng đến 1-2 tuổi: Trẻ em đến thời điểm này hoặc không ổn định với dây nịt Pavlik cần được gây mê toàn thân, sau đó là phẫu thuật thu nhỏ xương hông kín hoặc hở và bó bột cơ g*i.

Trên 2 tuổi: Trẻ lớn hơn có thể yêu cầu phẫu thuật cắt mở rộng với khả năng cắt xương đùi và xương chậu (cắt và sắp xếp lại xương), sau đó là bó bột.

Kết quả điều trị.

Thành công điều trị phụ thuộc vào độ tuổi của trẻ và sự thành công của việc tái định vị. Nhiều trường hợp được điều trị bằng đai Pavlik trong 6 tháng đầu đời đã hồi phục và phát triển bình thường, không có vấn đề gì về lâu dài. Trẻ càng lớn tuổi hoặc việc giảm bớt càng ít thành công thì càng cần phải phẫu thuật nhiều lần hoặc cuối cùng là viêm khớp háng và thay thế sau này trong cuộc đời.

22/12/2021

TỔN THƯƠNG ĐÁM RỐI THẦN KINH CÁNH TAY Ở TRẺ EM

Đám rối cánh tay ở trẻ ở sơ sinh có thể bị tổn thương trong khi sinh khó (Sjoberg và cộng sự 1988), ví dụ, khi một lực kéo ở đầu khi vai bé bắt đầu ra được. Trẻ bị loại tổn thương này thường nặng cân khi sinh, đẻ ngôi mông, đầu ra sau. Lực kéo đặt lên đám rối có thể gây tổn thương cho rễ trên (C5 và 6), gây tổn thương kiểu rễ trên gọi là liệt kiểu Erb hay cho rễ dưới (C7,8,T1), gây liệt các cơ ở bàn tay gọi là liệt kiểu Klumpke (đọc: Cờ- lum-ki). Hiếm gặp hơn là khi tất cả các rễ đều bị tổn thương và cánh tay trẻ hoàn toàn rũ, đó là liệt kiểu Erb-Klumpke. Định khu chính xác tổn thương trên giải phẫu thường gặp khó khăn (Wickstrom 1962; Adler và Patterson 1967). Nhiều trẻ sơ sinh thể hiện liệt kiểu hỗn hợp giữa rễ trên và rễ dưới.

Kiểu tổn thương thì nhiều mức độ từ phù ở một hay hai rễ đến giật đứt hoàn toàn đám rối. Thần kinh mặt cũng có thể bị ảnh hưởng trong sang chấn gây liệt mặt nhẹ (Eng 1971; Davis và cộng sự 1978; Jackson và cộng sự 1988) và khuyết tật mang lại tổn thương đó có thể rất là nặng.

Bệnh lý

Đám rối thần kinh cánh tay
Hình 10.1

Hình 10.1 cho thấy sơ đồ tượng trưng cho đám rối thần kinh cánh tay. Bất kỳ lực nào làm thay đổi mối liên hệ giải phẫu giữa cổ, đai vai và cánh tay có thể là chấn thương tiềm ẩn đám rối thần kinh vốn bám vào cạnh sườn đầu tiên và vào mỏm quạ của xương bả vai. Động tác nghiêng bên của đầu với đai vai hạ xuống làm dãn các dây thần kinh, ép chúng vào cạnh sườn thứ nhất. Điều đó có thể gây chấn thương đám rối thần kinh rễ trên, trong khi đó đám rối thần kinh rễ dưới có thể bị tổn thương do dang vai quá mức có lực kéo ở tay, điều đó vừa kéo dãn vừa ép dây thần kinh vào dưới mỏm quạ (Shepherd 1992).

Một lực kéo dãn mạnh ở rễ thần kinh hay ở thân đám rối có thể gây ra tổn thương nhiều mức độ từ sưng phù bao thần kinh làm ngắt sự dẫn truyền thần kinh đến xuất huyết và để lại sẹo, cho đến hoàn toàn đứt sợi trục (Eng và cộng sự 1978). Điện thế kích hoạt cảm thụ bản thể vỏ não (Somatosensory cortical-evoked potentials) có thể được dùng trợ giúp cho chẩn đoán chấn thương kiểu xé rách rễ sau (Zverina and Kredba 1977; Landi và cộng sự 1980).

Các nghiên cứu điện cơ đồ hàng loạt giúp lần theo dấu vết tiến trình phục hồi. Đầu tiên có sự giảm hoạt động của các đơn vị vận động có chủ ý và giảm điện thế do đứt dây thần kinh. Sự tái kích hoạt được nhận ra bởi sự xuất hiện của các đơn vị vận động đa pha. Khi tiến trình lành thương tiến triển, số lượng đơn vị vận động ghi nhận được gia tăng, điện thế dây thần kinh bị đứt giảm và cuối cùng có sự kích thích trở lại của các dây thần kinh được kích thích bằng điện. Những thay đổi tái kích hoạt trong cơ được nhận ra nhờ sự vắng mặt hoạt động của các đơn vị vận động, có ít điện thế của dây thần kinh bị đứt và không có dẫn truyền (Eng 1971). Các nghiên cứu ở trẻ sơ sinh cho thấy các thay đổi do đứt dây thần kinh lúc sinh có thể gây khuyết tật trong những thay đổi trong sự tăng trưởng bình thường sẽ xảy ra sau sinh trong các thuộc tính co rút của cơ (Stefanova – Uzanova và cộng sự 1981).

Mô tả

Trẻ sơ sinh, ngay sau khi sinh, quan sát thấy nằm không đối xứng, với một tay bị liệt lủng lẳng một bên thay vì giữ tư thế gập trội của trẻ mới sinh. Ở kiểu liệt cánh tay trên, các cơ sau đây có thể bị ảnh hưởng: cơ trám, cơ nâng vai, cơ răng cưa trước, cơ đen ta, cơ trên g*i, cơ dưới g*i, cơ nhị đầu cánh tay, cơ cánh tay quay, cơ cánh tay, cơ ngửa và cơ duỗi cổ tay, các ngón và ngón cái dài (Hình 10.2). Ở cẳng tay, những cơ sau đây có thể bị ảnh hưởng: cơ duỗi cổ tay và các ngón và cơ nội tại lòng bàn tay.

Hình 10.2

Hình 10.2 Trẻ sơ sinh bị liệt tùng tay phải. Chú ý thấy cẳng tay quay sấp, cổ tay và các ngón gập.

Sự yếu hay liệt khiến cho các cơ hoạt động bù trừ sinh ra sự thực hiện động tác thích nghi, sự co rút các mô mềm và có khả năng xảy ra sự mất dùng do tập nhiễm. Sự thực hiện động tác như các hoạt động thăng bằng trong khi ngồi và thao tác bằng hai tay, cũng như các hoạt động của tay liệt bị ảnh hưởng.

Sự loạn vận động xảy ra là kết quả của sự kết hợp của sự liệt và yếu cơ, các hoạt động của cơ còn đầy đủ thần kinh chi phối không đi cùng hoạt động của cơ đối vận và mất cân bằng chức năng bắt nguồn từ những yếu tố đó. Khi trẻ sơ sinh cố với ra lấy đồ chơi, thì hành vi vận động thích nghi sẽ trở nên rõ ràng, hoạt động đó được thực hiện bằng cách tốt nhất có thể được trong tình trạng động học các liên kết cơ xương có sẵn và tình trạng của hệ cơ. (H. 10.3).

Hình 10.3

Hình 10.3 Chú ý thấy vận động thích nghi khi trẻ với tay ra lấy đồ chơi. Bé có cơ gập vai, xoay ngoài và cơ ngửa yếu. Việc dang vai tạo thuận cho trẻ với ra trước với cánh tay xoay trong và quay sấp.

Co rút mô mềm do sự bất động khớp và tư thế của chi. Cơ nối cánh tay với xương bả vai (dưới vai, tròn bé, lưng rộng) là những cơ có nguy cơ nhiều nhất bị co ngắn trong tổn thương kiểu cánh tay trên.

Mất cảm giác có thể xảy ra ở bờ ngoài của cánh tay nhưng thường ít hơn so với mất vận động. Nơi mất cảm giác hoàn toàn ở liệt nặng cả cánh tay, thì sẽ mất tất cả cảm giác – đau, nhiệt độ, sờ và bản thể.

Tiên lượng

Tiên lượng phụ thuộc vào mức độ tổn thương ở đám rối. Thời gian để phục hồi mức tối đa dao động từ 1 đến 18 tháng. Sự tái kích hoạt không chắc sẽ xảy ra ở rách hoàn toàn sợi trục. Tuy nhiên, hầu hết các chấn thương ít nghiêm trọng và sau một phẫu thuật chỉnh nắn dây thần kinh không tổn thương bao Schwann, không tổn thương ống sợi trục hay tơ thần kinh, giảm phù và xuất huyết sẽ tự động dẫn đến phục hồi chức năng trong vòng một tháng. Nếu tổn thương là đứt sợi trục trong đó bao sợi trục bị ngắt nhưng sợi thần kinh vẫn còn nguyên, thì sự tái sinh sẽ xảy ra độ khoảng 1mm/ngày. Do đó, ở kiểu liệt cánh tay trên, sự tái kích hoạt có thể hoàn tất trong vòng 4-5 tháng, trong khi đó ở kiểu liệt cẳng tay dưới, phải mất tới 7-9 tháng.

Nếu có sự tách rời hoàn toàn sợi trục, thì sự mất cơ bắp sẽ thấy rõ hơn sau vài tuần. Nếu sự hồi phục không xảy ra, thì sự tăng trưởng bình thường sẽ không diễn ra, sẽ thấy chi nhỏ hơn chi lành khi trẻ lớn lên. Trẻ bị liệt hoàn toàn bị bỏ mặc với cánh tay mềm rũ mất cảm giác có thể bị trật khớp vai và hoàn toàn trở nên vô dụng. Trong trường hợp liệt cánh tay trên không thể phục hồi được, thì sẽ ấn tượng khi thấy trẻ thích nghi rất tốt trong việc sử dụng bả vai và cánh tay để bù trừ cho sự khiếm khuyết nếu liệt không nặng lắm. Nhiều trẻ liệt kiểu này cần có phẫu thuật khi trẻ lớn lên để cải thiện được chức năng. Sharrard (1971) và Zancolli (1981) mô tả những phẫu thuật có liên quan.

Lượng giá

Trẻ sơ sinh được gởi điều trị vật lý trị liệu càng sớm càng tốt khi tổn thương được nhận biết và chẩn đoán. Lượng giá được thực hiện khi trẻ không mặc áo và ở phòng ấm áp.

Động tác được thử bằng quan sát những cử động tự ý khi trẻ nằm ngửa và sấp, được bồng đi loanh quanh vỗ về và trò chuyện với em, và bằng cách quan sát hành vi vận động trong khi thử phản xạ và phản ứng (ví dụ, phản xạ Moro, phản ứng đặt bàn tay, phản xạ Galant, phản ứng chỉnh thế cổ, phản ứng nắm bàn tay) Sự quan sát sẽ cung cấp một số hoạt động của cơ có thể ghi nhận được thí dụ:

0 = vắng mặt

1 = có mặt nhưng không hết tầm

3 = có mặt suốt tầm vận động (Shepherd 1992).

Phản xạ Moro có thể bất đối xứng, với cánh tay dang không đủ, mặc dù khuỷu tay và các ngón có thể duỗi được. Phản xạ có thể xuất hiện ở kiểu liệt cánh tay trên nhưng không ở kiểu liệt cẳng tay. Việc gập ngón tay là bình thường đi cùng với gập khuỷu, do đó sự vắng mặt hoạt động của các cơ gập khuỷu sẽ làm sự cầm nắm của bàn tay yếu hơn ở bên tay liệt.

Thử phản xạ chỉnh thế cổ sẽ chỉ ra liệu trẻ có khả năng nào trong việc dang và gập vai không.

Điện cơ đồ được cho là một phương pháp hữu ích để xác định phạm vi và độ nặng của tổn thương và cung cấp thông tin có liên quan đến những kết quả tiềm năng sẽ thu được (Eng 1971). Điện cơ đồ cũng là công cụ hữu ích cho nhà vật lý trị liệu vì những dấu hiệu phục hồi trên điện cơ đồ luôn luôn biểu hiện ra chức năng trên lâm sàng sau vài tuần. Sự xuất hiện của những dấu hiệu này có thể theo sau đợt tập luyện cường độ cao để kích hoạt hoạt động ở những cơ đang phục hồi. Hầu như chắc chắn rằng sự luyện tập đặc thù theo các động tác của cánh tay ở thời điểm phục hồi này có thể là cốt yếu để tối đa hóa khả năng phục hồi chức năng và thần kinh của trẻ. Do đó, điện cơ đồ nên được sử dụng rộng rãi hơn hiện nay để hướng dẫn chương trình tập luyện vận động.

Nhà vật lý trị liệu tốt hơn là thực hiện sự lượng giá khoảng 1 giờ sau khi cho ăn, khi trẻ tỉnh táo và năng động.

Tầm vận động khớp được thực hiện bằng cách di chuyển toàn bộ cánh tay suốt tầm độ dang, nâng vai, gập, duỗi và quay, và thực hiện riêng rẽ ở mỗi khớp trong tầm vận động của khớp đó. Nên lưu ý tập di chuyển thụ động chi thể để tránh cho các mô mềm có liên quan bị kéo dãn quá mức quanh khớp ổ chảo cánh tay. Khi kiểm tra tầm vận động khớp, động tác của xương vai phải được chú ý vì những cơ bị co ngắn nối xương bả vai vào với xương cánh tay (ví dụ cơ dưới vai) làm xương vai bị kéo vào về phía lồng ngực nhiều hơn bình thường khi cánh tay gập hoặc dang.

Phương pháp điều trị

Cánh tay của trẻ được nghỉ trong từ 1-2 tuần sau khi sinh để cho phép giải quyết xong xuất huyết và phù.

Những mục tiêu chính của vật lý trị liệu là đảm bảo tình trạng tối ưu cho sự phục hồi của chức năng vận động, để tạo điều kiện môi trường cần thiết cho các cơ hoạt động trở lại ngay khi sự tái kích hoạt thần kinh đã xảy ra và để huấn luyện kiểm soát vận động bằng tập luyện các hoạt động như với ra để nắm lấy (Shepherd 1992).

Đảm bảo tình trạng tối ưu cho sự phục hồi chức năng bao gồm ngăn ngừa co rút mô mềm và biến dạng xương; ngăn ngừa hành vi vận động thích nghi; và ngăn ngừa sự quên nhãng chi liệt.

Để đảm bảo rằng tiềm năng phục hồi chức năng tối đa sẽ theo sau sự tái kích hoạt thần kinh thì việc huấn luyện vận động các động tác đặc thù phải được nhà vật lý trị liệu và phụ huynh tích cực theo đuổi ngay khi các cơ được tái phân bố thần kinh và có thể co. Nếu sự phục hồi không xảy ra, mục tiêu của vật lý trị liệu sẽ trở thành mục tiêu huấn luyện chức năng tối ưu sau vi phẫu sửa chữa các dây thần kinh (Boome và Kaye 1988) hoặc phẫu thuật chỉnh hình để chuyển đổi cơ hay hàn khớp.

Các động tác thụ động thông thường được khuyên tập như một phương pháp ngăn ngừa sự co rút mô mềm, đặc biệt là ngừa sự kết dính xương cánh tay- vai (H.10.4). Cha mẹ nên được cảnh báo cẩn thận không được kéo dãn quá mức mô mềm đặc biệt là quanh khớp vai và, trong trường hợp liệt kiểu toàn bộ cánh tay, phải lưu ý không được di chuyển khớp vai quá tầm độ vừa phải của tầm bình thường do có nguy cơ trật khớp ổ chảo cánh tay. Người ta nói rằng thao tác bằng tay mạnh bạo trên cánh tay được cho là một trong những nguy cơ góp phần làm sự thay đổi giải phẫu khớp ổ chảo cánh tay sau một tổn thương đám rối thần kinh cánh tay (Zancolli 1981). Không được giữ xương vai lại sau khi cánh tay đã di chuyển qua 30 độ đầu tiên, vì chuyển động của cánh tay mà không xoay xương vai sẽ làm cánh tay va chạm vào mỏm quạ.

Hình 10.4

Hình 10.4 Nằm nghiêng, thực hiện nhẹ nhàng kéo dãn các cơ áp và duỗi vai để duy trì độ dãn của các cơ này.

Việc mang nẹp để ngăn ngừa mô mềm bị co ngắn thì vẫn còn gây tranh cãi, mặc dù có chứng cớ mạnh mẽ cho rằng việc mang nẹp dang dẫn đến cơ động quá mức ở khớp ổ chảo cánh tay và có thể dẫn đến tổn thương khớp và trật khớp (Eng và cộng sự 1978). Sever, năm 1925, sau quan sát 1100 trẻ, đã báo cáo rằng việc mang nẹp cho thấy làm chậm lại sự hồi phục. Co rút dang/xoay ngoài được phát hiện thấy xảy ra ở trẻ bị nẹp mà không được tiếp cận vật lý trị liệu.

Huấn luyện vận động theo những huấn luyện đã được mô tả ở chương 3 và trong sách của Shepherd (1992), và nên được bắt đầu trong vòng tháng đầu đời. Mặc dù không có hoạt động ở các cơ bị mất phân bố thần kinh tại thời điểm này, nhưng việc tập luyện sớm có thể nhằm kích thích hoạt động của các cơ chỉ bị mất phân bố tạm thời và để giảm thiểu sự co rút mô mềm và bị sao nhãng. Hơn nữa, huấn luyện sớm thiết lập một mẫu thái độ thường trực ở cha mẹ, làm yên tâm rằng các cơ sẽ được kích thích để co đối với hoạt động vận động phù hợp ngay khi sự tái kích hoạt thần kinh xảy ra.

Sự huấn luyện vận động nên được hướng theo đặc thù hoạt động lứa tuổi nhấn mạnh đặc biệt vào việc với chạm tay và cuối cùng là nắm và thao tác các vật khác nhau. Những hoạt động của trẻ được giám sát, sử dụng tay để hướng dẫn (H. 10.5) và phản hồi bằng lời để đảm bảo trẻ vận cơ thích hợp với đòi hỏi của hành động.

Hình 10.5

Hình 10.5 Các vật được đưa cho bé để khuyến khích bé quay ngửa

Nên nhấn mạnh vào sự vận cơ dang, gập và xoay ngoài vai, là những động tác chính để với sang bên hoặc ra trước; cơ ngửa cẳng tay; cơ duỗi cổ tay; và cơ dang ngón cái. Những cơ này không được tập luyện riêng biệt mà được khuyến khích hoạt động như một phần của tổng hợp lực cần thiết để thực hiện một hoạt động đặc thù. Các tác vụ và vật được chọn tùy theo bản chất của chúng thúc đẩy được hành động được yêu cầu (H.10.6)

Hình 10.6

Hình 10.6 Các hoạt động dùng hai tay huấn luyện sự phối hợp giữa hai chi và nếu được sắp xếp cẩn thận, sẽ tối ưu hóa được sự hoạt động của cơ yếu.

Việc huấn luyện phải được thực hiện trong những điều kiện tối ưu đối với các cơ yếu, có nghĩa là, tính đến đòn bẩy, sự thẳng trục của các phân đoạn và sức nặng của cánh tay được nhấc lên, cố gắng kích hoạt hoạt động co cơ ly tâm nếu các hoạt động co cơ hướng tâm khó khăn. Tác vụ có thể phải được cải tạo để có thể đạt được. Ví dụ, cơ đen ta có thể không đủ mạnh để nhấc được cánh tay hết tầm vào vị thế thẳng đứng nhưng có khả năng giữ cánh tay và hạ xuống vài độ nếu cánh tay đang giữ thẳng đứng rồi (H. 10.7).

Hình 10.7

Hình 10.7 Gậy dùng để tạo phản hồi về việc quay ngửa và sấp. Trẻ được khuyến khích với ra vào vị thế này.

Có thể chơi các trò chơi đặc thù với trẻ sơ sinh nhiều tháng tuổi với mục đích là cải thiện nhận thức cảm giác của chi liệt. Các trò chơi như tìm một vật cụ thể trong cát, định vị chỗ được chạm, nhận biết và gọi tên những vật thông dụng trong khi bị bịt mắt là một số ví dụ.

Việc tập luyện nên được tiếp tục cho đến khi nào mà sự phục hồi vẫn còn xảy ra. Gatcheva (1979) đã báo cáo những bằng chứng điện cơ đồ về sự tái phân bố thần kinh và sự dẫn truyền trở lại của thần kinh trong 6-8 năm sau chấn thương đám rối thần kinh cánh tay và đề xuất rằng điều quan trọng là tiếp tục sự phục hồi chức năng trong nhiều năm. Có lẽ việc giám sát phục hồi bằng điện cơ đồ là được khuyên dùng, dùng nó như một hướng dẫn xem liệu có nên tiếp tục tập luyện hay không.

Chi bị sao nhãng hay bị liệt có thể góp phần vào thất bại của sự phục hồi của chức năng các cơ bắp khi mà sự tái kích hoạt thần kinh đã xảy ra. Đã có nhiều báo cáo về trẻ sơ sinh mà chức năng cơ bắp quay trở lại hoạt động tốt mặc dù những trẻ này đã không dùng đến cánh tay liệt đó (Eng 1971; Rose 1979). Sự sao nhãng này đã góp phần vào sự kém phát triển của ‘sự điều hợp hoạt động theo mẫu ’ (Wickstrom 1962) và góp phần vào sự thất bại trong phát triển mẫu vận động bình thường (Zalis và cộng sự 1965). Taub (1980) đã mô tả một hành vi gọi là ‘mất dùng qua tập nhiễm’ được quan sát thấy ở khỉ sau một vụ chặn xung động thần kinh đi tới chi trên, mà ông coi là tiên phát do hiện tượng tập nhiễm. Các con khỉ học cách không sử dụng tay liệt khi chúng có thể thực hiện được các hoạt động chúng muốn bằng tay còn lại mà ít muốn dùng đến tay liệt. Về sự tương quan của chấn thương đám rối thần kinh cánh tay là chi mất dùng do thói quen sẽ vẫn duy trì như thế thậm chí khi chi này đã có tiềm năng sử dụng được thì con vật dường như vẫn không nhận ra điều đó. Những khám phá tương tự đã được báo cáo đây đó (Yu 1976). Thú vị ở chỗ, trong nghiên cứu này, sự kết hợp giữa ràng buộc chi trên lành và huấn luyện đặc thù cho chi liệt đã cho thấy có kết quả tiến bộ về chức năng ở chi liệt. Một nghiên cứu ở hai trẻ em liệt bán thân (Schwartzman 1974) ứng dụng sự ràng buộc chi lành suốt giai đoạn sớm của các đợt huấn luyện trong thời gian ngắn nội trong ngày. Sau 6 tháng huấn luyện cả hai trẻ đã có thể sử dụng tay được huấn luyện trước đó của nó.

Bởi vì hiện tượng mất dùng do tập nhiễm có thể xảy ra ở trẻ sơ sinh bị tổn thương đám rối thần kinh cánh tay, nên có lẽ chương trình huấn luyện vận động nên kết hợp với các giai đoạn ràng buộc chi lành. Sự ràng buộc có thể thực hiện bằng cách giữ tay lành bên trong áo trẻ, hoặc bằng cách buộc lỏng vào cạnh sườn, hoặc bố trí môi trường để cho trẻ chỉ có thể với tay ra bằng chi liệt đến một vật trẻ muốn. (H. 10.8; xem H.3.26a). Điều quan trọng là sự ràng buộc phải đi liền với sự huấn luyện chi liệt và sự huấn luyện này được tiếp nối bằng những hoạt động thao tác bằng hai tay vì có một số động tác chi liệt cần thực hiện được bằng những động tác hai tay đó.

Hình 10.8

Hình 10.8 Tay lành có thể bị ràng buộc trong khi trẻ tập với ra bằng tay liệt.

Liệu pháp phản hồi sinh học, mặc dù không thường được dùng ở trẻ em, nhưng nó là một công cụ huấn luyện tiềm năng và làm mạnh thêm hành vi vận động cần đạt. Các dụng cụ tuy chưa được phát triển nhưng có thể sử dụng để huấn luyện sự kiểm soát chi trên bằng cách cung cấp một sự giải trí khó mà cưỡng lại được đối với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Những dụng cụ như thế có thể bật hoặc tắt khi có cử động tại khớp hoặc có cơ co.

Kích thích điện là biện pháp vẫn còn gây tranh cãi và hiệu quả của nó vẫn chưa được thử nghiệm đầy đủ. Người ta đề xuất rằng kích thích các cơ bị mất phân bố thần kinh ngăn ngừa được sự teo cơ (Eng 1971); Liberson và Terzis 1987). Có lẽ kích thích điện nên được dùng nhiều quãng thời gian kéo dài hơn và với những dụng cụ khác nữa hơn là những dụng cụ trên lâm sàng hiện nay, và nó nên được dùng theo định hướng chức năng và kết hợp với huấn luyện chủ động cho tay liệt.

Chỉnh cụ

Nẹp hay dây đai được dùng để ngăn ngừa sự hoạt động quá mức của cơ đối vận, và có thể cũng buộc cơ yếu phải co (Perry và cộng sự 1974; Draznin và cộng sự 1984). Có thể cho mang một cái nẹp nhỏ, nhẹ một phần thời gian trong ngày. Ví dụ, một cái nẹp nhựa đúc có thể được dùng để giữ ngón cái thành dang, hoặc một cái nẹp cổ tay để khuyến khích hoạt động của các cơ duỗi cổ tay ở chiều dài thường dùng để cầm nắm vật. Nẹp động (dynamic splinting) cũng có thể là hữu ích (Eng 1971).

Tóm tắt

Tổn thương đám rối thần kinh cánh tay khi sinh gây liệt hay yếu cơ chi trên và mất cảm giác, theo sau đó là những thay đổi trong thần kinh giao cảm, co rút mô mềm và biến dạng chi. Do đó, trẻ sơ sinh, bị mất chức năng đáng kể thì có khó khăn khi với tay ra và trong việc sử dụng tay liệt và khiếm khuyết trong các hoạt động dùng hai tay. Tiên lượng phụ thuộc chủ yếu vào mức độ tổn thương, và tiên lượng rất xấu đối với những tổn thương nặng. Tuy nhiên, tiềm năng phục hồi cũng bị ảnh hưởng bởi sự phát sinh sự mất dùng do tập nhiễm của chi liệt và co rút mô mềm, và bản chất cũng như cường độ tập luyện của sự phục hồi chức năng. Vai trò của nhà vật lý trị liệu trong việc phát triển một chương trình cho cha mẹ được tham dự vào các phương pháp kích thích hoạt động của cơ, ngăn ngừa co rút mô mềm, ngăn ngừa sự mất dùng do tập nhiễm và huấn luyện sự với tay ra cũng như việc sử dụng bàn tay theo chức năng khi có sự tái phân bố thần kinh.

( BỆNH NHI)PHỤC HỒI CHỨC NĂNG CHO TRẺ BỊ LIỆT TAY DO TỔN THƯƠNG ĐÁM RỐI THẦN KINH CÁNH TAYVận động trị liệu:Trong 1,2 tu...
29/03/2021

( BỆNH NHI)
PHỤC HỒI CHỨC NĂNG CHO TRẺ BỊ LIỆT TAY DO TỔN THƯƠNG ĐÁM RỐI THẦN KINH CÁNH TAY
Vận động trị liệu:
Trong 1,2 tuần đầu sau đẻ không can thiệp vì trẻ còn đau do chấn thương.
Từ tuần thứ 3 bắt đầu tập vận động.
Bài tập 1: Xoa bóp cơ cánh tay
Kỹ thuật: các động tác được thực hiện từ: Ngón tay-» bàn tay-» cẳng tay-» cánh tay -» vai (bên liệt).
Xoa bóp nhẹ nhàng sau khi trẻ ổn định tình trạng xuất huyết và phù nề
Bài tập 2: Vận động thụ động hết tâm các khớp
Vận động thụ động nên làm nhẹ nhàng, không dùng lực kéo mạnh tránh làm tổn thương khớp vai. Chú trọng kiểm soát cử động của xương bả vai khi làm cử động gập và dạng của khớp ổ chảo – cánh tay.
- Kỹ thuật vận động hết tầm tại khớp vai Gấp và duỗi:
Một tay cố định khớp vai. Tay kia giữ ở cẳng tay. Từ từ gập tay về phía đầu sau đó đưa trở lại vị trí ban đầu và ra sau.
Dạng và khép, xoay khớp vai vào trong và ra ngoài:
Một tay cố định khớp vai. Tay kia cầm ở cẳng tay. Từ từ dạng tay ra sau đó đưa trở lại vị trí ban đầu và qua ngực sang phía bên đối diện.
- Kỹ thuật vận động hết tầm tại khớp khuỷu.
Gấp và duỗi khớp khuỷu, sấp ngửa cẳng tay:
Một tay giữ tại khớp cổ tay. Tay kia nắm lấy bàn tay và từ từ ngửa bàn tay lên.
- Kỹ thuật vận động hết tầm tại khớp cổ tay.
Gập mặt mu khớp cổ tay, nghiêng trụ và nghiêng quay khớp cổ tay.
- Kỹ thuật vận động hết tầm tại khớp bàn ngón:
Duỗi đốt bàn ngón, dạng và khép các ngón.
- Kỹ thuật vận động hết tầm tại ngón cái
Duỗi đốt ngón cái: tay trẻ ở tư thế gập khớp khuỷu, KTV giữ bàn tay trẻ sao cho các ngón duỗi thẳng. Tay kia giữ hai bên ngón cái của trẻ, duỗi ngón cái ra: dạng ngón cái, gập ngón cái về các ngón khác.
Bài tập 3: Vận động chủ động
- Tư thế bệnh nhân: đặt trẻ ngồi trong lòng mẹ, mặt quay về KTV.
Kỹ thuật: KTV giữ tay lành. Đưa đồ chơi có màu sắc, tiếng động về phía tay liệt để khuyến khích trẻ với – cầm bằng tay liệt.
Bài tập 4: Tư thế đúng
Ngăn ngừa co rút mô mềm (do sự bất động khớp và tư thế của chi), các cơ (nối cánh tay với xương bả vai) và những cử động sai lệch của xương bả vai, cánh tay:
- Ngồi: treo tay ở tư thế gập khuỷu 90°.
- Nằm: nằm nghiêng, tay bị liệt ôm gối tròn.
Nguồn: http://membrane.com/

Bé trai 7 tuổi bị vẹo cô bẩm sinh, gia đình trươc đó không biết bệnh gì và cũng không biết chữa ở đâu.
01/07/2020

Bé trai 7 tuổi bị vẹo cô bẩm sinh, gia đình trươc đó không biết bệnh gì và cũng không biết chữa ở đâu.

09/10/2019

BỆNH VIÊM KHỚP DẠNG THẤP (Rheumatoid Arthritis)

Viêm khớp dạng thấp (VKDT) là một bệnh lý tự miễn điển hình, diễn biến mạn tính với các biểu hiện tại khớp, ngoài khớp và toàn thân ở nhiều mức độ khác nhau. Bệnh diễn biến phức tạp, gây hậu quả nặng nề do đó cần được điều trị tích cực ngay từ đầu bằng các biện pháp điều trị hữu hiệu để làm ngừng hay làm chậm tiến triển của bệnh, hạn chế tàn phế và nâng cao chất lượng sống cho người bệnh.
2. NGUYÊN NHÂN VÀ CƠ CHẾ SINH BỆNH
− Bệnh chưa rõ nguyên nhân, liên quan đến nhiễm khuẩn, cơ địa (nữ giới, trung
niên, yếu tố HLA) và rối loạn đáp ứng miễn dịch.
− Trong đó vai trò của lympho B (miễn dịch dịch thể), lympho T (miễn dịch qua trung gian tế bào), đại thực bào... với sự tham gia của các tự kháng thể (anti CCP, RF...) và các cytokines (TNFα, IL6, IL1...).
3. CHẨN ĐOÁN
3.1. Tiêu chuẩn của Hội Thấp khớp học Hoa Kỳ (ACR) 1987
− Hiện nay tiêu chuẩn này vẫn đang được áp dụng rộng rãi nhất trên thế giới và Việt Nam đối với thể biểu hiện nhiều khớp và thời gian diễn biến viêm khớp trên 6 tuần.
+ Cứng khớp buổi sáng kéo dài trên 1 giờ.
+ Viêm tối thiểu ba nhóm khớp: sưng phần mềm hay tràn dịch tối thiểu 3 trong số 14 nhóm khớp sau (kể cả hai bên): khớp ngón gần bàn tay, khớp bàn ngón tay, khớp cổ tay, khớpkhuỷu, khớpgối, khớpcổchân, khớpbànngónchân.
+ Viêm các khớp ở bàn tay: sưng tối thiểu một nhóm trong số các khớp cổ tay, khớp ngón gần, khớp bàn ngón tay.
+ Viêm khớp đối xứng.
+ Hạt dưới da.
+ Yếu tố dạng thấp trong huyết thanh dương tính.
+ Dấu hiệu X quang điển hình của VKDT: chụp khớp tại bàn tay, cổ tay hoặc khớp tổn thương: hình bào mòn, hình hốc, hình khuyết đầu xương, hẹp khe khớp, mất chất khoáng đầu xương.
Chẩn đoán xác định: khi có ≥ 4 tiêu chuẩn. Triệu chứng viêm khớp (tiêu chuẩn 1- 4) cần có thời gian diễn biến ≥ 6 tuần và được xác định bởi thầy thuốc.
Tiêu chuẩn ACR 1987 có độ nhạy 91-94% và độ đặc hiệu 89% ở những bệnh nhân VKDT đã tiến triển. Ở giai đoạn bệnh mới khởi phát, độ nhạy chỉ dao động từ 40-90% và độ đặc hiệu từ 50-90%.

Lưu ý: Hạt dưới da hiếm gặp ở Việt Nam. Ngoài ra, cần khảo sát các triệu chứng ngoài khớp như: teo cơ, viêm mống mắt, tràn dịch màng ngoài tim, tràn dịch màng phổi, viêm mạch máu... thường ít gặp, nhẹ, dễ bị bỏ sót.
3.2. Tiêu chuẩn của Hội Thấp khớp học Hoa Kỳ và Liên đoàn chống Thấp khớp châu Âu 2010 (ACR/EULAR 2010 - American College of Rheumatology/ European League Ag*inst Rhumatism). Tiêu chuẩn này có thể áp dụng trong trường hợp bệnh ở giai đoạn sớm, các khớp viêm dưới 06 tuần và thể ít khớp. Tuy nhiên cần luôn theo dõi đánh giá lại chẩn đoán vì nhiều trường hợp đây cũng có thể là biểu hiện sớm của một bệnh lý khớp khác không phải viêm khớp dạng thấp
Đối tượng là các bệnh nhân:
− Có ít nhất một khớp được xác định viêm màng hoạt dịch trên lâm sàng.
− Viêm màng hoạt dịch khớp không do các bệnh lý khác.
Biểu hiện Điểm A. Biểu hiện tại khớp
1 khớp lớn 0 2−10 khớp lớn 1 1−3 khớp nhỏ (có hoặc không có biểu hiện tại các khớp lớn) 2 4−10 khớp nhỏ (có hoặc không có biểu hiện tại các khớp lớn) 3 >10 khớp (ít nhất phải có 1 khớp nhỏ) 5 B. Huyết thanh (ít nhất phải làm một xét nghiệm)
RF âm tính và Anti CCP âm tính 0 RF dương tính thấp* hoặc Anti CCP dương tính thấp* 2 RF dương tính cao* hoặc Anti CCP dương tính cao* 3 C. Các yếu tố phản ứng pha cấp (cần ít nhất một xét nghiệm)
CRP bình thường và Tốc độ lắng máu bình thường 0 CRP tăng hoặc Tốc độ lắng máu tăng 1 D. Thời gian biểu hiện các triệu chứng
3 lần giới hạn cao của bình thường.
3.3. Xét nghiệm cận lâm sàng cần chỉ định
− Các xét nghiệm cơ bản: tế bào máu ngoại vi, tốc độ máu lắng, protein phản ứng
C (CRP)..., xét nghiệm chức năng gan, thận, Xquang tim phổi, điện tâm đồ...

Các xét nghiệm đặc hiệu (có giá trị chẩn đoán, tiên lượng):
Yếu tố dạng thấp (RF) dương tính trong 60 - 70 % bệnh nhân.
Anti CCP dương tính trong 75 - 80 % bệnh nhân.
Xquang khớp (thường chụp hai bàn tay thẳng hoặc các khớp bị tổn thương).
3.4. Chẩn đoán phân biệt
Lupus ban đỏ hệ thống, thoái hoá khớp, gút mạn tính, viêm cột sống dính khớp,
viêm khớp vảy nến...
4. ĐIỀU TRỊ
4.1. Nguyên tắc
Điều trị toàn diện, tích cực, dài hạn và theo dõi thường xuyên. Các thuốc điều trị cơ bản hay còn gọi là nhóm thuốc DMARDs (Disease-modifying antirheumatic drugs) kinh điển (methotrexate, sulfasalazine, hydroxychloroquine...) có vai trò quan trọng trong việc ổn định bệnh và cần điều trị kéo dài. Các thuốc sinh học còn được gọi là DMARDs sinh học (kháng TNF α, kháng Interleukin 6, kháng lympho 😎 được chỉ định đối với thể kháng điều trị với DMARDs kinh điển, thể nặng hoặc tiên lượng nặng. Khi chỉ định các thuốc sinh học, cần có ý kiến của các bác sỹ chuyên khoa cơ xương khớp và thực hiện đúng quy trình [làm các xét nghiệm tầm soát lao, viêm gan (virus B, C), chức năng gan thận, đánh giá hoạt tính bệnh bằng chỉ số DAS 28, CDAI, SDAI...].
4.2. Điều trị cụ thể
− Điều trị triệu chứng: nhằm cải thiện triệu chứng viêm, giảm đau, duy trì khả
năng vận động (tuy nhiên các thuốc này không làm thay đổi được sự tiến triển của bệnh).
+ Các thuốc kháng viêm không steroid (KVKS- NSAIDs).
Các thuốc kháng viêm ức chế chọn lọc COX2 (được chọn lựa đầu tiên vì thường phải sử dụng dài ngày và ít có tương tác bất lợi với methotrexat).
Celecoxib: 200mg, uống 1 đến 2 lần mỗi ngày.
Hoặc Meloxicam: 15 mg tiêm (chích) bắp hoặc uống ngày một lần.
Hoặc Etoricoxib: 60 - 90 mg, ngày uống một lần.
Các thuốc kháng viêm ức chế không chọn lọc:
Diclofenac: uống hoặc tiêm bắp: 75mg x 2 lần/ngày trong 3 - 7 ngày. Sau đó uống: 50 mg x 2 - 3 lần/ ngày trong 4 - 6 tuần.
Brexin (piroxicam + cyclodextrin) 20mg uống hàng ngày.
Hoặc các thuốc kháng viêm không steroid khác (liều tương đương).
Lưu ý: khi dùng cho các bệnh nhân có yếu tố nguy cơ có các tác dụng không mong muốn của thuốc KVKS (NSAIDs) [bệnh nhân già yếu, tiền sử (tiền căn) bị bệnh
lý dạ dày...] hoặc điều trị dài ngày, cần theo dõi chức năng thận và bảo vệ dạ dày bằng các thuốc ức chế bơm proton.
+ Corticosteroids (Prednisolone, Prednisone, Methylprednisolone)
Thường sử dụng ngắn hạn trong lúc chờ đợi các thuốc điều trị cơ bản có hiệu lực.
Chỉ định khi có đợt tiến triển (tiêu chuẩn đợt tiến triển xem ở phần Phụ lục).
Thể vừa: 16-32 mg methylprednisolon (hoặc tương đương), uống hàng ngày vào 8
giờ sáng, sau ăn.
Thể nặng: 40 mg methylprednison TM mỗi ngày.
Thể tiến triển cấp, nặng, đe doạ tính mạng (viêm mạch máu, biểu hiện ngoài khớp nặng): bắt đầu từ 500-1.000mg methylprednisolone truyền TM trong 30-45 phút/ngày, điều trị 3 ngày liên tục. Sau đó chuyển về liều thông thường. Liệu trình này có thể lặp lại mỗi tháng nếu cần.
Sử dụng dài hạn (thường ở những bệnh nhân nặng, phụ thuộc corticoid hoặc có suy thượng thận do dùng corticoid kéo dài): bắt đầu ở liều uống: 20mg hàng ngày, vào 8 giờ sáng. Khi đạt đáp ứng lâm sàng và xét nghiệm, giảm dần liều, duy trì liều thấp nhất (5 - 8mg hàng ngày hoặc cách ngày) hoặc ngừng (nếu có thể) khi điều trị cơ bản có hiệu lực (sau 6-8 tuần).
− Điều trị cơ bản bằng các thuốc chống thấp làm thay đổi tiến triển của bệnh (Disease Modifying Anti Rheumatic Drug-DMARDs) để làm chậm hoặc làm ngừng tiến triển của bệnh, cần điều trị lâu dài và theo dõi các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng trong suốt thời gian điều trị).
+ Thể mới mắc và thể thông thường: sử dụng các thuốc DMARDs kinh điển methotrexat khởi đầu 10 mg một lần mỗi tuần. Tùy theo đáp ứng mà duy trì liều cao hoặc thấp hơn (7,5 - 15 mg) mỗi tuần (liều tối đa là 20 mg/ tuần).
Hoặc Sulfasalazin khởi đầu 500 mg/ngày, tăng mỗi 500 mg mỗi tuần, duy trì ở liều 1.000 mg x 2 lần mỗi ngày.
Kết hợp: methotrexat với sulfasalazin hoặc hydroxychloroquine nếu đơn trị liệu không hiệu quả.
Kết hợp: methotrexat, sulfasalazin và hydroxychloroquine nếu kết hợp trên không hiệu quả.
+ Thể nặng, kháng trị với các DMARDs kinh điển (không có đáp ứng sau 6 tháng) cần kết hợp với các thuốc sinh học (các DMARDs sinh học).
Trước khi chỉ định các thuốc sinh học, cần làm các xét nghiệm để sàng lọc lao, viêm gan, các xét nghiệm chức năng gan thận và đánh giá mức độ hoạt động bệnh (máu lắng hoặc CRP, DAS 28, HAQ).
Kết hợp methotrexate và thuốc kháng Interleukin 6 (tocilizumab):
Methotrexat 10 - 15 mg mỗi tuần + tocilizumab 4 - 8mg/kg cân nặng, tương
đương 200 - 400mg truyền TM mỗi tháng một lần.
Hoặc kết hợp methotrexate và một trong bốn loại thuốc kháng TNF α sau:
Methotrexat 10-15 mg mỗi tuần + etanercept 50mg tiêm dưới da mỗi tuần một lần.
Methotrexat 10-15mg mỗi tuần + infliximab truyền TM 2-3mg/kg mỗi 4 - 8 tuần.
Methotrexat 10-15mg mỗi tuần + adalimumab 40mg tiêm dưới da 2 tuần một lần.
Methotrexat 10-15mg mỗi tuần + golimumab 50mg mỗi tháng 1 lần - tiêm dưới da.
Hoặc kết hợp methotrexate và thuốc kháng lympho B (rituximab):
Methotrexat 10 - 15 mg mỗi tuần + rituximab truyền TM 500 – 1000mg x 2 lần, cách 2 tuần, có thể nhắc lại một hoặc hai liệu trình mỗi năm.
Sau 3 – 6 tháng điều trị, nếu thuốc sinh học thứ nhất không hiệu quả, có thể xem xét thuốc sinh học thứ hai, tương tự như vậy, có thể xem xét thuốc sinh học thứ ba khi sau 3 – 6 tháng, thuốc sinh học thứ hai không hiệu quả.
Các điều trị phối hợp khác: − Các biện pháp hỗ trợ
+ Tập luyện, hướng dẫn vận động chống co rút gân, dính khớp, teo cơ.
Trong đợt viêm cấp: để khớp nghỉ ở tư thế cơ năng, tránh kê, độn tại khớp. Khuyến khích tập ngay khi triệu chứng viêm thuyên giảm, tăng dần, tập nhiều lần trong ngày, cả chủ động và thụ động theo đúng chức năng sinh lý của khớp.
+ Phục hồi chức năng, vật lý trị liệu, tắm suối khoáng, phẫu thuật chỉnh hình (cắt xương sửa trục, thay khớp nhân tạo khi có chỉ định).
− Phòng ngừa và điều trị các biến chứng của điều trị, các bệnh kèm theo:
+ Viêm, loét dạ dày tá tràng: cần chủ động phát hiện và điều trị vì trên 80% bệnh
nhân không có triệu chứng lâm sàng.
+ Phòng ngừa (khi có các yếu tố nguy cơ) và điều trị bằng thuốc ức chế bơm
proton, kèm thuốc điều trị Helicobacter Pylori (nếu có nhiễm HP).
+ Khi sử dụng cortisteroid bất cứ liều nào trên 01 tháng, cần bổ xung calci, vitamin D để phòng ngừa loãng xương. Nếu bệnh nhân có nguy cơ loãng xương cao có thể sử dụng bisphosphonates. Khi đã có loãng xương, tùy theo mức độ loãng xương, tuổi, giới và điều kiện cụ thể của người bệnh mà lựa chọn các thuốc phù hợp (thường là bisphosphonate).
+ Thiếu máu: acid folic, sắt, vitamin B12...
5. THEO DÕI VÀ TIÊN LƯỢNG
− Bệnh nhân phải được điều trị lâu dài và theo dõi trong suốt quá trình điều trị.
− Xét nghiệm định kỳ: tế bào máu ngoại vi, tốc độ máu lắng, protein phản ứng C (CRP), Creatinine, SGOT, SGPT 2 tuần một lần trong một tháng đầu, hàng tháng trong 3 tháng tiếp theo, sau đó có thể 3 tháng một lần, tùy theo đáp ứng của người bệnh.
Xét nghiệm máu cấp, chụp X quang phổi ... khi cần, tùy theo diễn biến của bệnh.
− Sinh thiết gan khi có nghi ngờ tổn thương gan (enzym gan tăng > 3 lần trong 3 lần xét nghiệm liên tiếp). Trường hợp enzym gan tăng gấp đôi và kéo dài nên ngừng Methotrexat.
− Tiên lượng nặng khi: tổn thương viêm nhiều khớp, bệnh nhân nữ, yếu tố dạng thấp RF và /hoặc Anti-CCP (+) tỷ giá cao, có các biểu hiện ngoài khớp, HLADR4 (+), hoạt tính của bệnh (thông qua các chỉ số: DAS 28, VS, CRP, HAQ... Với những trường hợp này cần điều trị tích cực ngay từ đầu và xem xét việc dùng các DMARDs sinh học sớm.
6. PHÒNG BỆNH
− Không có biện pháp phòng bệnh đặc hiệu, các can thiệp phòng ngừa chủ động đối với VKDT là những biện pháp chung nhằm nâng cao sức khoẻ, thể trạng bao gồm ăn uống, tập luyện và làm việc, tránh căng thẳng.
− Phát hiện và điều trị sớm các bệnh lý nhiễm trùng, các tình trạng rối loạn miễn dịch.

Address

Khu đô Thị Đại Kim/Hoàng Mai/Hanoi
Hanoi

Opening Hours

Monday 17:00 - 20:00
Tuesday 17:00 - 20:00
Wednesday 17:00 - 20:00
Thursday 17:00 - 20:00
Friday 17:00 - 20:00
Saturday 09:00 - 20:00
Sunday 08:00 - 19:00

Telephone

+84918517681

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Vật Lý Trị Liệu - Phục Hồi Chức Năng Chấn Thương Chỉnh Hình Nhi Khoa posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram

Category