19/10/2020
Bốn nguyên nhân chính gây ra bệnh lác ở trẻ em cần cảnh giác và phòng tránh
Loại lác này chủ yếu là do bất thường về vị trí của các cơ ngoại nhãn, sự phát triển không bình thường của các cơ ngoại bì, sự phân hóa không hoàn toàn của các lá trung bì, sự phân tách kém của các cơ Gây tê liệt.
Một số cha mẹ tình cờ phát hiện ra con mình mà không biết con mình bắt đầu mắc các bệnh về mắt như nhược thị , lác.
Khả năng chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài của trẻ còn tương đối yếu, một khi bị các bệnh về mắt tấn công, sự phát triển thị lực của trẻ có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trong đó, lác và nhược thị phổ biến hơn cả.
Tại sao trẻ em dễ bị lác?
01. Phát triển không hoàn hảo
Trẻ em, đặc biệt là trẻ sơ sinh, có sự phát triển không hoàn hảo về khả năng nhìn hai mắt và không thể phối hợp tốt các cơ ngoại nhãn. Bất kỳ yếu tố không ổn định nào cũng có thể thúc đẩy sự xuất hiện của lác.
Chức năng nhìn trực quan của con người phát triển dần dần, cũng giống như chức năng thị giác, sự hình thành của chức năng này là sự kích thích hình ảnh rõ nét về thế giới bên ngoài, hình ảnh này dần dần phát triển và trưởng thành.
Đối với trẻ trước 5 tuổi, giai đoạn mắt nhìn một mắt chưa hoàn thiện chức năng mắt lác thì tỷ lệ trẻ bị lác ở trẻ là rất cao.
02, bất thường bẩm sinh
Loại lác này phần lớn là do sự bất thường về vị trí của các cơ ngoại nhãn bẩm sinh, sự phát triển không bình thường của các cơ ngoại bì, sự phân hóa không hoàn toàn của các lá trung bì, sự phân tách kém của các cơ mắt, sự bất thường của bao cơ và xơ hóa, hoặc liệt dây thần kinh bên trong cơ. Đến.
Ngoài ra còn có yếu tố di truyền, bệnh lác đồng tiền không phải tất cả các thành viên trong gia đình đều di truyền và tật này thường di truyền cho thế hệ con cái sau.
Nói chung, mắt lác xảy ra trong vòng 6 tháng sau khi sinh được gọi là lác bẩm sinh, không có các điều kiện cơ bản để hình thành thị giác hai mắt và có hại nhất cho sự phát triển chức năng thị giác.
03. Đặc điểm phát triển nhãn cầu khiến trẻ dễ bị lác.
Vì nhãn cầu của trẻ nhỏ và trục của chúng ngắn nên chúng chủ yếu là mắt viễn thị, và vì giác mạc và thủy tinh thể của trẻ có công suất khúc xạ lớn, các cơ thể mi có sức co mạnh, tức là có chỗ ở mạnh.
Những đứa trẻ như vậy cần nhiều khả năng thích ứng hơn nếu muốn nhìn rõ các vật, đồng thời mắt cũng buộc phải hướng vào trong để tạo ra sự hội tụ quá mức, dễ gây ra dị ứng. Hiện tượng dị hướng này được gọi là dị hướng thích nghi.
04. Kiểm soát không đủ trung tâm chuyển động của mắt
Nếu bắt cóc quá mạnh, bắt cóc không đủ, hoặc cả hai tồn tại đồng thời thì sinh ra xiên bên trong; ngược lại, bắt cóc quá mạnh, bắt cóc không đủ, hoặc cả hai tồn tại đồng thời, và xảy ra hiện tượng ngoại tâm thu.
Những mối nguy hiểm của bệnh lác?
1. Ảnh hưởng đến vẻ đẹp, gây ra các mức độ khác nhau của khiếm khuyết tâm lý, đặc biệt là sự tự ti về bản thân sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của con người;
2. Gây ra chức năng thị giác bất thường không thể sửa chữa.
Trong những trường hợp nghiêm trọng, không có thị lực âm thanh nổi tốt. Thị giác âm thanh nổi là một chức năng thị giác nâng cao mà chỉ con người và động vật bậc cao mới có và nó là một trong những điều kiện tiên quyết để mọi người có thể làm việc tốt.
Nếu không có tầm nhìn âm thanh nổi tốt, bất kỳ vật thể nào cũng sẽ là một bề mặt phẳng không có chiều sâu và khoảng cách;
3. Nếu bị nhược thị thì không thể điều chỉnh được thị lực.
Làm thế nào để ngăn ngừa sự xuất hiện của lác ở trẻ em?
Trước hết, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ phải có một môi trường sống tốt trong quá trình sinh trưởng và phát triển, chú ý vệ sinh mắt.
Không nên cho trẻ sơ sinh đặt những vật thu hút mạnh mắt trong tầm nhìn để tránh bị lác mắt do nhìn lâu.
Thứ hai, chú ý đến chế độ ăn uống khoa học, giàu dinh dưỡng, ăn nhiều rau quả tươi, đặc biệt là bổ sung vitamin, canxi và protein, ăn nhiều ngũ cốc nguyên hạt, ít ăn bánh kẹo để nhãn cầu và cơ phát triển cân đối.
Cuối cùng, các bậc cha mẹ được nhắc nhở rằng ngay khi phát hiện trẻ bị lác, cần đến khám chuyên khoa mắt của bệnh viện chính quy kịp thời, để không để chậm cơ hội, gây tổn thương thị giác vĩnh viễn, thậm chí khiến trẻ không phát triển trí tuệ.
Tóm lại, chỉ cần phát hiện sớm, thăm khám và điều trị sớm mới có kết quả điều trị như ý.