Sức khỏe cuộc sống

Sức khỏe cuộc sống Trang chuyên chia sẻ và tư vấn sức khỏe cuộc sống cho người dân Việt

1. Thông tin chung về đại tràng và chứng đau đại tràngTrước khi giải đáp câu hỏi “đau đại tràng là đau ở đâu”, các chuyê...
15/12/2021

1. Thông tin chung về đại tràng và chứng đau đại tràng
Trước khi giải đáp câu hỏi “đau đại tràng là đau ở đâu”, các chuyên gia sức khỏe của chúng tôi giúp bạn hiểu rõ về đại tràng và chứng đau đại tràng.

1.1. Một chút kiến thức về đại tràng
Đại tràng hay còn gọi là ruột già - là một trong những bộ phận quan trọng thuộc hệ tiêu hóa, có chiều dài khoảng 1,2m - 1,5m. Chức năng chính của đại tràng là tái hấp thu điện giải, nước, tổng hợp vitamin, tiết dịch và là nơi tạo phân thải ra ngoài cơ thể.

Đau đại tràng là đau ở đâu

Tìm hiểu sơ lược về các bộ phận của đại tràng

Đại tràng có 3 phần chính là: manh tràng, kết tràng và trực tràng. Trong đó kết tràng lại chia thành 4 phần nhỏ hơn gọi là kết tràng ngang, kết tràng lên, kết tràng xuống và nằm gần trực tràng là kết tràng chậu hông (còn được gọi là kết tràng xích ma). Cơ chế hoạt động của ruột già như sau:

Sau khi ruột non hấp thụ phần lớn các chất dinh dưỡng từ thức ăn thì phần thức ăn còn lại cùng các chất thải sẽ đi vào đại tràng trái (manh tràng). Manh tràng sẽ hấp thụ chất lỏng, điện giải kết hợp với các vi khuẩn có lợi ở thành ruột phân hủy thức ăn tạo thành phân đi qua kết tràng và xuống trực tràng. Sau đó trực tràng co bóp kết hợp các nhu động ruột bài tiết phân ra ngoài.

1.2. Chứng đau đại tràng
Vì đại tràng là bộ phận lên men phân phần thức ăn chưa được tiêu hóa,do đó trong Đại tràng có hệ vi khuẩn cực kì lớn, điều này vừa có lợi cho cơ thể nhưng nguy cơ bị nhiếm khuẩn,kí sinh trùng cũng tăng lên.. dẫn đến chứng đau đại tràng hay viêm đại tràng. Theo đó, tình trạng này xảy ra khi lớp lót phía bên trong của ruột già bị tổn thương khiến cơ chế hoạt động của bộ phận này bị rối loạn.

Đau đại tràng là tình trạng lớp lót phía bên trong của ruột già bị lở loét

Đau đại tràng là tình trạng lớp lót phía bên trong của ruột già bị lở loét

Tình trạng lở loét có thể chỉ là 1 phần nhưng cũng có trường hợp nặng hơn là lở loét rải rác theo chiều dài của ruột già. Bệnh gây ra những cơn đau dai dẳng kèm theo rối loạn tiêu hóa ảnh hưởng đến sinh hoạt thường ngày, khiến người bệnh rất khó chịu. Vậy đau đại tràng là đau ở đâu, làm sao để biết bản thân có phải đang bị đau đại tràng hay bệnh lý khác?

2. Triệu chứng của viêm đại tràng, đau đại tràng là đau ở đâu?
2.1. Triệu chứng của viêm đại tràng
Triệu chứng viêm đại tràng cụ thể như sau:

Thay đổi về số lần đi ngoài và tính chất phân: Biểu hiện là đi ngoài phân lúc lỏng, lúc rắn, phân nát, không thành khuôn hoặc bị táo bón, đại tiện khoảng 6 - 7 lần trong ngày. Và thường có cảm giác muốn đi đại tiện tiếp khi vừa mới đi xong.

Đau bụng: Những cơn đau xuất hiện bất thường, lúc âm ỉ, lúc dữ dội, lúc lại như kim châm. Kèm theo đau bụng người bị viêm đại tràng còn cảm thấy chướng bụng, đầy hơi, óc ách rất khó chịu.

Bị tiêu chảy, phân sống, có mùi tanh kèm theo dịch mủ hoặc máu.

Người bị đau đại tràng có thể bị sốt, mệt mỏi, chán ăn, suy nhược, sụt cân, khó thở, đau đầu, ợ hơi, tim đập nhanh, căng thẳng, hồi hộp.

Khi ăn các đồ sống, đồ lạ, thức ăn nhiều dầu mỡ thì ngay lập tức bị đau bụng và đi ngoài liên tục.

Như đã đề cập đau bụng là một trong những dấu hiệu nhận biết bệnh viêm đại tràng. Tuy nhiên đau dạ dày, viêm ruột thừa cũng gây ra những cơn đau, vậy đau đại tràng là đau ở đâu?

2.2. Đau đại tràng là đau ở đâu?
Vì đại tràng có kích thước khá dài, lại được chia thành nhiều phần nhỏ có hình dạng gấp khúc, cấu trúc phức tạp nên nếu bị viêm đại tràng bạn có thể bị đau ở rất nhiều vị trí khác nhau. Một số người thì đau bụng vùng quanh rốn nói chung, số khác lại đau ở một điểm cụ thể trên bụng.

Đau đại tràng là đau ở đâu - thường gặp nhất là đau bụng trái

Đau đại tràng là đau ở đâu - thường gặp nhất là đau bụng trái

Biểu hiện đau bụng do viêm đại tràng thường là đau bụng trái, đau ở vùng bụng phía dưới rốn, đau ở mạn sườn, phía hạ sườn, khu vực hố chậu. Hoặc có thể là đau ở thượng vị, hạ vị và nhiều vị trí khác nhau ở ổ bụng.

Triệu chứng đau ở mỗi độ tuổi là khác nhau. Tuy nhiên, chứng đau đại tràng thường xảy ra với những người có chế độ ăn uống kém lành mạnh, thường xuyên sử dụng các chất kích thích như rượu, bia, cà phê,... Hoặc với những người có người thân (bố mẹ, anh chị em ruột mắc bệnh viêm đại tràng).

Nếu bạn đã biết đau đại tràng là đau ở đâu và cũng đang gặp phải một trong những triệu chứng kể trên thì hãy đến bệnh viện thăm khám, kiểm tra đại tràng ngay để có hướng điều trị phù hợp nhất.

3. Điều trị viêm đại tràng như thế nào?
Nếu biết vị trí đau đại tràng là đau ở đâu, đồng thời gặp phải một số biểu hiện bệnh lý kể trên, người bệnh cần đến bệnh viện để khám nội soi đại tràng. Bác sĩ sẽ đưa ra lời khuyên để trị bệnh triệt để.

Người bị đau đại tràng không nên mua thuốc uống khi chưa có sự thăm khám của bác sĩ. Vì nếu uống thuốc không đúng cách, không đúng bệnh còn khiến bệnh bị nặng hơn, đôi khi gây nhờn thuốc rất khó điều trị tận gốc. Trong trường hợp bệnh viêm đại tràng nặng bác sĩ có thể yêu cầu phẫu thuật.

4. Bệnh viêm đại tràng có nguy hiểm không?
Bệnh viêm đại tràng nếu phát hiện sớm và có sự hướng dẫn điều trị của bác sĩ thì không có gì nguy hiểm. Tuy nhiên, nếu người bệnh tự ý dùng thuốc khiến bệnh từ nhẹ chuyển thành nặng, không điều trị dứt điểm, bác sĩ phát hiện quá muộn thì đau đại tràng có thể chuyển biến thành ung thư đại tràng, vô cùng nguy hiểm.

Nếu đau đại tràng không được điều trị sớm có thể biến chứng thành ung thư đại tràng, cực kỳ nguy hiểm

Nếu đau đại tràng không được điều trị sớm có thể biến chứng thành ung thư đại tràng, cực kỳ nguy hiểm

Một số biến chứng nguy hiểm của viêm đại tràng có thể kể đến như: Đại tràng bị xuất huyết ồ ạt, thủng đại tràng, giãn đại tràng cấp tính và ung thư đại tràng. Đây đều là những biến chứng nguy hiểm khiến người bệnh đau đơn, thậm chí có thể gây tử vong nếu người bệnh không được phát hiện bệnh và điều trị kịp thời.

Vậy làm sao để tránh bị đau đại tràng?

5. Nguyên nhân và cách phòng ngừa bệnh đau đại tràng
Nguyên nhân dẫn đến chứng đau đại tràng chủ yếu là do chế độ ăn uống kém lành mạnh, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Cho nên để phòng ngừa bệnh viêm đại tràng, bạn cần:

Tuân thủ chế độ ăn uống lành mạnh, tránh xa rượu, bia và các chất kích thích, ăn nhiều rau xanh, trái cây, uống nước sôi, không ăn thức ăn còn tươi, sống.

Tẩy giun định kỳ 6 tháng 1 lần.

Uống men tiêu hóa để bổ sung men vi sinh và lợi khuẩn cho ruột.

Khi phát hiện dấu hiệu của bệnh viêm đại tràng, người bệnh cần đến bệnh viện uy tín để thăm khám sớm nhất. Khi có kết quả và hướng dẫn của bác sĩ, cần tuân thủ nghiêm ngặt lời khuyên của bác sĩ để bệnh viêm đại tràng không biến chứng nguy hiểm.

Đặc biệt, khi chưa rõ bệnh tình cụ thể, người bệnh không nên tự ý mua thuốc. Vì dùng sai thuốc không những chữa được bệnh mà còn khiến bệnh tình nặng hơn, biến chứng nguy hiểm hơn.

Từ những chia sẻ trong bài viết, bạn đã biết đau đại tràng là đau ở đâu? Triệu chứng, cách chữa trị, mức độ nguy hiểm cùng nguyên nhân và cách phòng bệnh đau đại tràng. Nếu bạn phát hiện bản thân có các dấu hiệu lâm sàng của bệnh đau đại tràng thì đến cơ sở ý tế để kiểm tra ngay nhé!

Sinh lý bệnhViêm loét đại tràng (UC) thường khởi đầu ở trực tràng. Bệnh có thể chỉ cục bộ ở trực tràng (viêm loét trực t...
15/12/2021

Sinh lý bệnh
Viêm loét đại tràng (UC) thường khởi đầu ở trực tràng. Bệnh có thể chỉ cục bộ ở trực tràng (viêm loét trực tràng) hoặc lan rộng đến đầu gần, đôi khi ảnh hưởng đến toàn bộ đại tràng. Hiếm khi tổn thương hầu hết đại tràng cùng một lúc.

Viêm do UC ảnh hưởng đến lớp niêm mạc và dưới niêm mạc và có một ranh giới rõ ràng giữa mô bình thường và mô bị ảnh hưởng. Chỉ trong thể bệnh nặng lớp cơ mới bị ảnh hưởng. Trong giai đoạn sớm của bệnh, màng nhầy hồng đỏ, có dạng hạt và dễ vỡ, mất dạng mạch bình thường và thường có các vùng xuất huyết rải rác. Loét niêm mạc rộng với xuất tiết mủ nhiều là đặc trưng cho thể bệnh nặng. Niêm mạc viêm tăng sản hoặc tương đối bình thường tạo cụm nhô lên hơn các vùng niêm mạc bị loét (giả polyp) Rò và áp xe không xảy ra.

Viêm loét đại tràng
Viêm loét đại tràng
HÌNH ẢNH CỦA CÁC BS. AARON E. WALFISH VÀ RAFAEL A. CHING COMPANIONI.

Giả polyp
Giả polyp
HÌNH ẢNH CỦA CÁC BS. AARON E. WALFISH VÀ RAFAEL A. CHING COMPANIONI.

Viêm đại tràng nhiễm độc
Viêm đại tràng nhiễm độc hoặc viêm đại tràng kịch phát xảy ra khi loét lan rộng xuyên thành dẫn đến viêm phúc mạc và tắc ruột cục bộ. Trong vài giờ đến vài ngày, đại tràng mất trương lực cơ và bắt đầu giãn ra.

Các thuật ngữ phình đại tràng nhiễm độc và giãn do nhiễm độc không khuyến khích dùng vì trạng thái viêm nhiễm độc và các biến chứng của nó có thể xảy ra mà không có phình (được định nghĩa là đường kính đại tràng ngang > 6 cm trong đợt cấp).

Viêm đại tràng nhiễm độc là tình trạng cấp cứu, thường xảy ra tự phát trong viêm đại tràng rất nặng, nhưng đôi khi bị xảy ra do thuốc cầm tiêu chảy dạng opioid hoặc kháng cholinergic. Có thể thủng đại tràng, làm tăng đáng kể tỷ lệ tử vong.

Triệu chứng và Dấu hiệu
Tiêu chảy phân máu với cường độ và thời gian khác nhau xen kẽ với khoảng thời gian không triệu chứng. Thông thường một đợt bệnh bắt đầu âm thầm, tăng dần nhu cầu đi ngoài, đau quặn bụng dưới mức độ nhẹ và có nhầy máu trong phân. Một số trường hợp tiến triển sau khi nhiễm trùng (ví dụ, lỵ amip, lỵ trực khuẩn).

Khi bị loét ở đoạn trực tràng-đại tràng sigma, phân có thể bình thường hoặc cứng và khô, nhưng các chất tiết nhầy niêm mạc chứa hồng cầu và bạch cầu đi kèm hoặc xảy ra giữa các lần đi ngoài. Các triệu chứng toàn thân không có hoặc nhẹ. Nếu loét lan đến đầu gần, phân trở nên lỏng lẻo và bệnh nhân có thể đi ngoài > 10 lần mỗi ngày, thường đau quặn bụng dữ dội và đau co thắt trực tràng, không giảm về đêm. Phân có thể có nước hoặc chứa chất nhầy và thường gồm gần như toàn bộ máu và mủ.

Viêm đại tràng độc hoặc kịch phát biểu hiện ban đầu với tiêu chảy đột ngột dữ dội, sốt đến 40° C (104° F), đau bụng, các dấu hiệu viêm phúc mạc (ví dụ phản ứng thành bụng) và nhiễm độc máu rõ.

Triệu chứng và dấu hiệu toàn thân, phổ biến hơn ở UC lan tỏa, bao gồm mệt mỏi, sốt, thiếu máu, chán ăn và sút cân. Biểu hiện ngoài ruột của IBD (đặc biệt là các biến chứng về khớp và da) thường gặp nhất khi có triệu chứng toàn thân.

Chẩn đoán
Nuôi cấy và soi phân (để loại trừ các nguyên nhân lây nhiễm)
Nội soi đại tràng sigma có sinh thiết
Biểu hiện ban đầu
Gợi ý chẩn đoán bởi các triệu chứng và dấu hiệu điển hình, đặc biệt khi đi kèm với biểu hiện ngoài da hoặc có tiền sử các cơn đau tương tự trước đây. Viêm loét đại tràng cần được phân biệt với Bệnh Crohn (xem Bảng: Phân biệt bệnh Crohn và viêm loét đại tràng) nhưng quan trọng hơn là với các nguyên nhân khác của viêm đại tràng cấp tính (ví dụ như nhiễm trùng; bệnh nhân cao tuổi, thiếu máu cục bộ).

Ở tất cả các bệnh nhân, cấy phân tìm mầm bệnh đường ruột nên được thực hiện, và Entamoeba histolytica nên được loại trừ bằng cách xét nghiệm mẫu phân tươi. Khi nghi ngờ nhiễm amip do tiền sử dịch tễ hoặc tiền sử du lịch nên làm chuẩn độ huyết thanh và sinh thiết. Tiền sử sử dụng kháng sinh từ trước hoặc nhập viện gần đây nên tiến hành xét nghiệm phân tìm độc tố Clostridium difficile. Bệnh nhân có nguy cơ nên được kiểm tra HIV, lậu, herpesvirus, chlamydia và amip. Nhiễm trùng cơ hội (ví dụ, cytomegalovirus, Mycobacterium avium-intracellulare) hoặc ung thư Kaposi cũng phải được xem xét ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Ở phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai đường uống, có thể gây ra viêm đại tràng do thuốc tránh thai; tình trạng này thường tự hết sau khi ngừng liệu pháp hormon. Xét nghiệm phân tìm lactoferrin và calprotectin trong phân có thể có lợi trong việc phân biệt IBD với tiêu chảy chức năng.

Cần thực hiện nội soi đại tràng; cho phép xác định trực quan viêm đại tràng và cho phép lấy mẫu bệnh phẩm phân hoặc chất nhầy trực tiếp để nuôi cấy và đánh giá vi thể, cũng như sinh thiết các vùng bị ảnh hưởng. Mặc dù việc đánh giá bằng mắt thường và sinh thiết có thể không có ý nghĩa chẩn đoán, bởi vì có nhiều sự chồng lấp giữa các loại viêm đại tràng, viêm cấp đại cấp tính, tự giới hạn, viêm nhiễm đại tràng lây nhiễm có thể được phân biệt mô học với bệnh UC tự phát mạn tính hoặc viêm đại tràng Crohn. Bệnh ngoài ruột nặng, không biểu hiện ở trực tràng, không có chảy máu và sự tham gia bất đối xứng hoặc từng đoạn của đại tràng hướng đến bệnh Crohn thay vì UC. Nội soi đại tràng thường không cần thiết lúc đầu nhưng nên được thực hiện chọn lọc nếu viêm đã lan gần tới tầm với của ống soi đại tràng sigma.

Xét nghiệm cần phải được thực hiện để sàng lọc thiếu máu, giảm albumin máu và các bất thường về điện giải. Cần làm xét nghiệm chức năng gan; ALP và GGT tăng cao gợi ý có thể có xơ viêm ống mật tiên phát. Các pANCA tương đối đặc hiệu (60 đến 70%) đối với UC. Kháng thể kháng Saccharomyces cerevisiae tương đối đặc hiệu đối với bệnh Crohn. Tuy nhiên, các xét nghiệm này không phân biệt chắc chắn 2 bệnh và không được khuyến cáo trong chẩn đoán thường quy. Các bất thường xét nghiệm khác có thể xuất hiện bao gồm tăng bạch cầu, giảm tiểu cầu và tăng các chất phản ứng pha cấp (ví dụ, ESR, protein phản ứng C).

X-quang không nhằm chẩn đoán nhưng đôi khi phát hiện thấy bất thường. Xquang bụng có thể thấy phù nề niêm mạc, mất rãnh ngang ruột già và phân không hình thành trong vùng ruột bị bệnh. Thụt barium cho thấy những biến đổi tương tự, mặc dù rõ ràng hơn, và cũng có thể cho thấy loét, nhưng không nên thụt trong giai đoạn cấp. Đại tràng cứng và ngắn cùng với teo hoặc niêm mạc dạng giả polyp thường xuất hiện sau vài năm bị bệnh. Xquang thấy hình dấu ấn ngón cái và phân bố thành từng đoạn gợi ý nhiều đến thiếu máu ruột cục bộ hoặc có thể là viêm đại tràng Crohn hơn là UC.

Triệu chứng tái phát
Bệnh nhân đã bị bệnh và tái phát các triệu chứng điển hình cần được khám lại, nhưng không phải lúc nào cũng cần tiến hành tất cả các xét nghiệm. Tùy thuộc vào thời gian và mức độ nghiêm trọng của triệu chứng, có thể thực hiện nội soi đại trực tràng hoặc nội soi sigma và tổng phân tích tế bào máu. Nuôi cấy, xét nghiệm trứng và ký sinh trùng và độc tính C. difficile cần được thực hiện khi có các triệu chứng tái phát không điển hình hoặc khi có một đợt cấp sau thời gian hồi phục kéo dài, trong một vụ dịch, sau khi dùng kháng sinh, hoặc bất cứ khi nào thày thuốc lâm sàng nghi ngờ.

Đợt cấp tiến triển nặng
Bệnh nhân cần phải nhập viện nhanh chóng trong thời gian phát bệnh nghiêm trọng. Chụp X quang tư thế nằm và đứng thẳng có thể cho thấy phình đại tràng hoặc khí tích lũy trong ruột thời gian dài liên tục và liệt đoạn đại tràng do mất trương lực cơ. Cần tránh nội soi đại tràng và thụt barium vì có nguy cơ thủng, tuy nhiên nội soi đại tràng sigma cẩn thận nên được làm để đánh giá mức độ nặng và loại trừ nhiễm trùng. Tổng phân tích tế bào máu, tốc độ máu lắng, protein phản ứng C, điện giải và albumin; PT, PTT, và nhóm máu và chéo máu cũng được chỉ định trong trường hợp chảy máu trầm trọng.

Bệnh nhân phải được theo dõi sát viêm phúc mạc tiến triển hoặc thủng. Gõ gan rất quan trọng bởi vì mất độ đục gan có thể là dấu hiệu lâm sàng đầu tiên của thủng tự do, đặc biệt là ở bệnh nhân mà dấu hiệu phúc mạc bị ức chế bởi corticosteroid liều cao. X-quang bụng được thực hiện mỗi 1 hoặc 2 ngày để theo dõi quá trình giãn hơi đại tràng và phát hiện khí tự do hoặc khí trong ruột; CT nhạy hơn trong việc phát hiện khí ngoài ruột hoặc áp xe quanh ruột.

Kinh nghiệm lâm sàng và các sai lầm thường gặp
Tránh nội soi đại tràng và dung dịch barium trong trường hợp viêm đại tràng loét nặng do nguy cơ thủng.
Tiên lượng
Thông thường, UC là bệnh mạn tính với những đợt cấp và thuyên giảm lặp đi lặp lại. Ở khoảng 10% bệnh nhân, đợt tấn công ban đầu rất dữ dội với xuất huyết nghiêm trọng, thủng, nhiễm khuẩn huyết và nhiễm độc huyết. Hồi phục hoàn toàn sau một đợt tấn công chiếm 10%.

Bệnh nhân viêm loét đại tràng cục bộ có tiên lượng tốt nhất. Các biểu hiện toàn thân nghiêm trọng, các biến chứng độc và thoái hoá ác tính không có khả năng xảy ra và sự lan rộng muộn của bệnh xảy ra chỉ khoảng 20 đến 30%. Phẫu thuật hiếm khi được chỉ định và tuổi thọ ở mức bình thường. Tuy nhiên, các triệu chứng có thể chứng tỏ sự dai dẳng và kháng trị của bệnh. Hơn nữa, vì UC lan rộng có thể bắt đầu ở trực tràng và lan đến đầu gần, viêm trực tràng không được coi là cục bộ cho đến khi được theo dõi ≥ 6 tháng. Bệnh cục bộ mà sau đó lan rộng thường nghiêm trọng hơn và có tính kháng trị hơn.

Ung thư đại tràng
Nguy cơ ung thư đại tràng tỷ lệ thuận với thời gian mắc bệnh và số lượng đại tràng bị ảnh hưởng nhưng không nhất thiết là mức độ nặng của các đợt tấn công của bệnh. Một số nghiên cứu cho thấy viêm vi thể mạn tính là một yếu tố nguy cơ và việc sử dụng 5-ASA để kiểm soát viêm có ý nghĩa bảo vệ.

Ung thư bắt đầu xuất hiện khoảng 7 năm sau khi khởi phát bệnh ở những bệnh nhân viêm đại tràng lan rộng và sau đó tiến triển khoảng 0,5 đến 1% bệnh nhân mỗi năm. Do đó, sau 20 năm bị bệnh, khoảng 7% đến 10% bệnh nhân sẽ tiến triển thành ung thư và khoảng 30% sau 35 năm bị bệnh. Tuy nhiên, những bệnh nhân bị bệnh viêm ruột và viêm xơ ống mật phát có nguy cơ ung thư cao hơn từ thời điểm chẩn đoán viêm đại tràng.

Theo dõi bằng nội soi định kỳtrong thời gian bệnh thuyên giảm, được khuyến cáo ở những bệnh nhân có thời gian bị bệnh > 8 đến 10 năm (ngoại trừ những người bị viêm trực tràng độc lập) hoặc đồng thời có viêm xơ ống mật nguyên phát, trong trường hợp đó, nội soi nên bắt đầu vào thời điểm chẩn đoán. Các hướng dẫn gần đây nhất khuyến cáo sinh thiết ngẫu nhiên (10 cm một mảnh trong đại tràng) khi sử dụng nội soi ánh sáng trắng độ phân giải cao, và chỉ sinh thiết tổn thương phát hiện loạn sản khi sử dụng phép soi sắc ký. Phát hiện loạn sản ở bất kỳ mức độ nào trong vùng bị ảnh hưởng bởi viêm đại tràng có khả năng tiến triển đến giai đoạn tân sinh cao hơn và thậm chí là ung thư. Sau khi loại bỏ hoàn toàn các tổn thương loạn sản có polyp hoặc không polyb bằng nội soi, theo dõi bằng nội soi được đề xuất thay phẫu thuật cắt đại tràng. Bệnh nhân có loạn sản không thể nhìn thấy bằng nội soi có thể được giới thiệu đến một bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa có chuyên môn về theo dõi IBD bằng phương pháp soi sắc ký và/hoặc phương pháp nội soi có độ phân giải cao để quyết định nên cắt đại tràng hay tiếp tục theo dõi nội soi.

Tần suất tối ưu của theo dõi nội soi chưa được thiết lập, nhưng một số tác giả khuyến cáo cứ mỗi 2 năm trong thấp kỷ thứ 2 của bệnh và sau đó hàng năm.

Thời gian sống sót sau khi chẩn đoán ung thư đại tràng liên quan đến viêm đại tràng là khoảng 50%, một con số tương đương với tỷ lệ ung thư đại trực tràng trong dân số nói chung.

Điều trị
Quản lý chế độ ăn và loperamide (ngoại trừ đợt nặng cấp tính) để giảm triệu chứng
Axit 5-aminosalicylic (5-ASA)
Corticosteroid và các thuốc khác tùy thuộc vào triệu chứng và mức độ nghiêm trọng
Chất chống chuyển hóa và các thuốc sinh học
Đôi khi phẫu thuật
Chi tiết về thuốc và liều lượng cụ thể được thảo luận trong Thuốc điều trị viêm đại trực tràng.

Quản lý chung
Tránh trái cây và hoa quả tươi nhằm hạn chế chấn thương niêm mạc đại tràng viêm và từ đó có thể làm giảm các triệu chứng. Chế độ ăn uống không sữa có thể giúp ích nhưng không cần phải tiếp tục nếu không có lợi ích nào được ghi nhận. Loperamide 2 mg đường uống từ hai đến bốn lần/ngày được chỉ định cho tiêu chảy tương đối nhẹ; liều cao hơn (4 mg vào buổi sáng và 2 mg sau mỗi lần đi cầu) có thể được dùng với tiêu chảy nặng hơn. Các thuốc chống tiêu chảy phải được sử dụng hết sức thận trọng trong các trường hợp nặng vì chúng có thể gây ra giãn đại tràng nhiễm độc. Tất cả bệnh nhân bị bệnh viêm ruột nên được khuyên dùng một lượng canxi và vitamin D thích hợp.

Biện pháp trì sức khoẻ định kỳ (ví dụ như chủng ngừa, sàng lọc ung thư) cần được chú ý.

Bệnh đại tràng trái nhẹ
Bệnh nhân bị viêm trực tràng, hoặc viêm đại tràng không lan đến đầu gần phía góc lách, được điều trị bằng 5-ASA (mesalamine) tiêm tĩnh mạch một lần/ngày hoặc hai lần/ngày tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng. Thuốc đặt có hiệu quả đối với bệnh ở đoạn xa hơn và thường được bệnh nhân ưa dùng. Corticosteroid và budesonide thụt ít hiệu quả hơn nhưng nên được sử dụng nếu 5-ASA không thành công hoặc không dung nạp được. Một khi đạt được sự thuyên giảm, liều lượng giảm dần dần đến mức duy trì. Các thuốc 5-ASA đường uống về mặt lý thuyết có một số lợi ích gia tăng làm giảm khả năng lan rộng của bệnh.

Bệnh vừa hoặc nặng
Bệnh nhân bị viêm gần đại tràng góc lách hoặc đại tràng trái không đáp ứng với các thuốc tại chỗ cần phải được uống thuốc 5-ASA kèm thụt thuốc 5-ASA. Liều cao corticosteroid được sử dụng ở bệnh nhân có các triệu chứng nghiêm trọng hơn; sau 1 đến 2 tuần, liều hàng ngày sẽ giảm khoảng 5 đến 10 mg mỗi tuần. Liệu pháp miễn dịch với azathioprine hoặc 6-mercaptopurine có thể được sử dụng ở những bệnh nhân kháng trị với liều 5-ASA tối đa hoặc những bệnh nhân điều trị bằng corticoid kéo dài. Ngoài ra, infliximab, adalimumab và golimumab có lợi ở một số bệnh nhân và có thể được xem xét đối với những người kháng trị với thuốc điều hòa miễn dịch (thiopurine failure) hoặc corticosteroid cũng như những bệnh nhân phụ thuộc corticosteroid. Hơn nữa, sự kết hợp của thuốc điều hòa miễn dịch và liệu pháp kháng TNF đôi khi hữu ích. Cuối cùng, ở một số bệnh nhân không đáp ứng với corticosteroid, thuốc ức chế miễn dịch hoặc thuốc kháng TNF, thử nghiệm vedolizumab có thể được cân nhắc.

Bệnh nặng
Bệnh nhân có > đi ngoài phân máu trên 10 lần mỗi ngày, nhịp tim nhanh, sốt cao hoặc đau bụng nặng cần phải nằm viện để dùng corticosteroid liều cao. 5-ASA có thể được tiếp tục. Truyền tĩnh mạch và truyền máu cần cho mất nước và thiếu máu. Bệnh nhân phải được theo dõi sát sự tiến triển của viêm đại tràng độc. Dinh dưỡng ngoài ruột đôi khi được sử dụng để hỗ trợ dinh dưỡng nhưng không có giá trị như là một liệu pháp chính; những bệnh nhân có thể dung nạp được thức ăn nên ăn.

Những bệnh nhân không đáp ứng trong vòng 3 đến 7 ngày nên được xem xét dùng cyclosporine đường tĩnh mạch hoặc infliximab hoặc phẫu thuật. Bệnh nhân đáp ứng với phác đồ corticosteroid trong vòng ít nhất một tuần được chuyển sang prednisone 60 mg uống một lần/ngày, có thể được giảm dần ở nhà dựa trên đáp ứng lâm sàng. Những bệnh nhân bắt đầu dùng IV cyclosporine và đáp ứng với điều trị được chuyển sang dùng cyclosporine uống và đồng thời với azathioprine hoặc 6-mercaptopurine. Cyclosporine uống tiếp tục khoảng 3 đến 4 tháng, trong thời gian đó corticosteroid giảm dần và mức cyclosporine được theo dõi chặt chẽ. Một số bác sĩ khuyên dự phòng viêm phổi Pneumocystis jirovecii trong khoảng thời gian điều trị chồng chéo giữa corticosteroid, cyclosporine, và thuốc chống huyết khối.

Viêm đại tràng kịch phát
Nếu nghi ngờ có viêm đại tràng nhiễm độc hoặc viêm đại tràng kịch phát, bệnh nhân nên

Ngừng tất cả các thuốc chống tiêu chảy
Không ăn uống gì và đặt một ống dài vào ruột để hút ngắt quãng
Truyền dịch và điện giải với natri clorua 0,9%, kali clorua và máu khi cần thiết
Truyền corticosteroid liều cao hoặc cyclosporine
Truyền kháng sinh (ví dụ, metronidazole 500 mg đường TM mỗi 8 giờ và ciprofloxacin 500 mg đường TM mỗi 12 giờ)
Lăn trở bệnh nhân từ sấp sang ngửa mỗi 2 đến 3 giờ có thể giúp phân phối lại khí trong đại tràng và ngăn ngừa chướng tiến triển. Chèn ống trực tràng mềm cũng có thể hữu ích nhưng phải được thực hiện cẩn thận để tránh thủng ruột. Ngay cả khi giải ép được đại tràng giãn, bệnh nhân không thoát khỏi nguy hiểm trừ khi quá trình viêm được kiểm soát; nếu không thì sẽ cần đến phẫu thuật cắt đại tràng.

Nếu các biện pháp y tế chuyên sâu không đem lại cải thiện rõ rệt trong vòng 24 đến 48 giờ, cần phải phẫu thuật ngay lập tức hoặc bệnh nhân có thể chết vì nhiễm khuẩn huyết do chuyển vị của vi khuẩn hoặc thậm chí là thủng.

Điều trị duy trì
Sau điều trị hiệu quả một cơn bùng phát, giảm dần liều corticosteroid dựa trên đáp ứng lâm sàng và sau đó dừng lại bởi vì chúng không có hiệu quả duy trì. Bệnh nhân nên duy trì các thuốc 5-ASA đường uống hoặc trực tràng, tùy thuộc vào vị trí bệnh - không xác định vì ngừng điều trị duy trì thường tái phát bệnh. Khoảng liều dùng cho các chế phẩm trực tràng có thể dãn dài dần đến mỗi 2 hoặc 3 ngày. Có rất nhiều bằng chứng cho thấy kết hợp liệu pháp đường uống và trực tràng có hiệu quả đáng kể so với đơn độc một trong hai liệu pháp.

Những bệnh nhân không thể dừng corticosteroids nên được cho dùng thiopurines (azathioprine hoặc 6-mercaptopurine), thuốc chống TNF, hoặc kết hợp các thuốc. Đối với các trường hợp kháng trị, thuốc anti-integrin vedolizumab có thể được sử dụng cho cả bệnh UC và bệnh Crohn. Ngoài ra, infliximab, adalimumab, hoặc golimumab đang được chấp nhận rộng rãi hơn như là liệu pháp duy trì cho UC.

Phẫu thuật
Gần một phần ba số bệnh nhân có UC lan tỏa sau cùng cũng cần phẫu thuật. Phẫu thuật cắt đại trực tràng toàn bộ là biện pháp điều trị khỏi: Tuổi thọ được khôi phục lại bình thường, bệnh không tái phát (không giống như bệnh Crohn), và nguy cơ ung thư ruột già giảm đáng kể. Sau khi cắt đại trực tràng toàn bộ với nối túi nhỏ hậu môn (IPAA), vẫn có một nguy cơ nhỏ về chứng loạn sản hoặc ung thư trong vùng chuyển tiếp trực tràng và hậu môn và ngay cả trong túi hồi tràng. Sau phẫu thuật cắt toàn bộ đại trực tràng hoặc IPAA, chất lượng cuộc sống được cải thiện; tuy nhiên, những thách thức về chất lượng cuộc sống mới được tạo ra.

Phẫu thuật cắt đại tràng cấp cứu được chỉ định trong xuất huyết lan rộng, viêm đại tràng nhiễm độc thể kịch phát, hoặc thủng. Phẫu thuật cắt bỏ một phần đại tràng với nối thông hỗng tràng và đóng trực tràng-đại tràng sigma (thủ thuật Hartmann) hoặc lỗ rò niêm mạc thường là các kỹ thuật được lựa chọn vì hầu hết các bệnh nhân bị bệnh nặng không thể chịu đựng được phẫu thuật lớn hơn. Gốc trực tràng-đại tràng sigma có thể được loại bỏ chọn lọc sau đó hoặc có thể được sử dụng cho nối hỗng tràng hậu môn bằng túi. Đầu trực tràng còn lại sau cắt không nên để lại mãi vì nguy cơ hoạt hóa bệnh và chuyển dạng ác tính.

Phẫu thuật chọn lọc được chỉ định cho bệnh ung thư, hẹp có triệu chứng, chậm phát triển ở trẻ em, hoặc, thường là bệnh mãn tính khó chữa đem lại kết quả không giá trị hoặc phụ thuộc vào corticosteroid. Các biểu hiện ngoài ruột liên quan đến viêm đại tràng (ví dụ, viêm da mủ hoại thư), bây giờ được điều trị tốt hơn bằng các liệu pháp y tế tích cực và hiếm khi được chỉ định cho phẫu thuật.

Phẫu thuật chọn lọc ở những bệnh nhân có chức năng cơ vòng bình thường là cắt đại trực tràng phục hồi bằng nối hồi tràng hậu môn. Thủ thuật này tạo ra một hồ chứa ở vùng chậu hoặc túi từ đầu xa của hồi tràng, đoạn này được nối với hậu môn. Cơ thắt còn nguyên vẹn cho phép đại tiện, thường từ 4-9 lần/ngày (bao gồm 1 hoặc 2 lần vào ban đêm).

Viêm túi hồi tràng là một phản ứng viêm xảy ra sau khi cắt bỏ đại trực tràng phục hồi với IPAA ở khoảng 50% bệnh nhân. Nguy cơ viêm túi hồi tràng có vẻ cao hơn ở những bệnh nhân mắc viêm xơ ống mật nguyên phát, những bệnh nhân có biểu hiện ngoài ruột trước mổ và có thể ở những bệnh nhân có hiệu gia kháng thể kháng toan quanh nhân trước mổ cao và các dấu hiệu sinh học khác về viêm đại tràng cũng cao. Viêm túi hồi tràng được cho là liên quan đến sự phát triển của vi khuẩn và được điều trị bằng kháng sinh (ví dụ, quinolones). Probiotic có thể có tác dụng bảo vệ. Hầu hết các trường hợp viêm túi thừa được kiểm soát dễ dàng, nhưng 5 đến 10% kháng với tất cả các liệu pháp y học và cần phải chuyển sang phương pháp thường quy (Brooke). Đối với một số bệnh nhân lớn tuổi, những người có gia đình và lối sống tốt, những người trương lực cơ thắt kém và không đáp ứng được việc đi ngoài thường xuyên hoặc những người đơn giản là không thể hoặc không muốn đối mặt với hậu quả của viêm túi túi hồi tràng thường xuyên hoặc mạn tính, mở hỗng tràng Brooke vẫn là thủ thuật được lựa chọn.

Trong bất kỳ trường hợp nào, cần phải nhận ra những gánh nặng về thể xác và tinh thần do bất kỳ kiểu cắt ruột nào gây ra và cần lưu ý rằng bệnh nhân sẽ nhận được tất cả các hướng dẫn và tất cả sự hỗ trợ y tế và tâm lý cần thiết trước và sau khi phẫu thuật.

Khoảng 20% dân số Việt Nam mắc bệnh viêm đại tràng, trong số đó có 4 triệu người mắc viêm đại tràng mãn tính. Đây là con...
15/12/2021

Khoảng 20% dân số Việt Nam mắc bệnh viêm đại tràng, trong số đó có 4 triệu người mắc viêm đại tràng mãn tính. Đây là con số đáng lo ngại trong khi nhận thức về bệnh viêm đại tràng của người dân nước ta vẫn còn hạn chế – BS.CKI Huỳnh Văn Trung cho biết.

Mặc dù đây là một bệnh phổ biến nhưng việc phòng ngừa và điều trị vẫn chưa được thực hiện đúng cách. Rất nhiều bệnh nhân viêm đại tràng hiện nay không đến bệnh viện thăm khám, điều trị mà chọn chữa bệnh bằng các loại thuốc dân gian không rõ nguồn gốc, chưa được chứng minh tính hiệu quả. Hậu quả là bệnh không được chữa khỏi mà ngày càng trở nên nghiêm trọng, khiến người bệnh phải gánh chịu nhiều biến chứng nặng nề, Bác sĩ Trung chia sẻ.

viêm đại tràng là gì?
Viêm đại tràng rất phổ biến ở Việt Nam với khoảng 4 triệu người mắc phải căn bệnh này

Viêm đại tràng là gì?
Viêm đại tràng là tình trạng viêm niêm mạc đại tràng. Viêm đại tràng có thể do nhiễm trùng, bệnh viêm đường ruột (IBD), thiếu máu, phản ứng dị ứng hoặc viêm đại tràng vi thể. Viêm đại tràng mạn tính thường là tình trạng kéo dài suốt đời và hiện nay vẫn chưa có cách chữa trị dứt điểm mà chỉ có các lựa chọn điều trị để giúp kiểm soát tình trạng bệnh.

Bệnh viêm đại tràng được chia thành các loại như sau:

Bệnh viêm ruột – Inflammatory bowel disease (IBD): Là bệnh viêm mạn tính hoặc tái phát của đường tiêu hóa gồm viêm loét đại trực tràng (ulcerative colitis- UC) và bệnh Crohn. Viêm loét đại trực tràng (ulcerative colitis- UC) là tình trạng viêm lan tỏa, không đặc hiệu, tổn thương không rõ nguồn gốc liên tiếp trực tràng đến đại tràng, gây viêm trợt và loét niêm mạc. Bệnh Crohn: là bệnh viêm mạn tính không rõ nguyên nhân, đặc trưng bởi tình trạng viêm hoặc dò tất cả các lớp của đường tiêu hóa và tổn thương phân bố không liên tục.
Viêm đại tràng giả mạc (PC): Viêm đại tràng giả mạc (PC) xảy ra do sự phát triển quá mức của vi khuẩn Clostridium difficile. Loại vi khuẩn này thường sống trong ruột nhưng không gây ra vấn đề gì vì nó được cân bằng nhờ sự hiện diện của vi khuẩn có lợi. Một số loại thuốc, đặc biệt là thuốc kháng sinh có thể tiêu diệt vi khuẩn có lợi gây loạn khuẩn đường ruột dẫn đến sự tăng sinh quá mức C.difficile gây viêm đại tràng giả mạc.
Viêm đại tràng do thiếu máu cục bộ (IC): Viêm đại tràng do thiếu máu cục bộ (IC) xảy ra khi lưu lượng máu đến đại tràng đột ngột bị cắt đứt hoặc hạn chế. Cục máu đông là một trong số các lý do gây tắc nghẽn đột ngột thường gặp. Các bệnh lý và yếu tố làm tăng nguy cơ viêm đại tràng do thiếu máu như: Viêm mạch; bệnh đái tháo đường; ung thư ruột kết; mất nước; mất máu; suy tim; chấn thương; tác dụng phụ của thuốc, phẫu thuật vùng bụng hoặc động mạch lớn như động mạch chủ.
Viêm đại tràng vi thể: là tình trạng tổn thương đại tràng gây nên tiêu chảy nước kéo dài. Khi nội soi đại trực tràng thì các kết quả đều nằm trong giới hạn bình thường, đại tràng tổn thương chỉ được xác định dựa trên kết quả mô học. Viêm đại tràng vi thể được phân loại thành hai dạng: Viêm đại tràng lympho và viêm đại tràng collagen. Các yếu tố nguy cơ gây ra viêm đại tràng vi thể như: hút thuốc lá, bệnh lý tự miễn, người trên 50 tuổi, giới tính nữ… Các triệu chứng phổ biến nhất của viêm đại tràng vi thể là tiêu chảy mãn tính, đầy bụng đau bụng, sụt cân, nôn ói, mất nước.
Viêm đại tràng dị ứng ở trẻ sơ sinh: Viêm đại tràng dị ứng là một tình trạng xảy ra ở trẻ sơ sinh, thường trong vòng hai tháng đầu sau khi sinh. Tình trạng này có thể gây ra các triệu chứng ở trẻ sơ sinh như trào ngược, nôn, quấy khóc và có thể có máu trong phân. Mặc dù các bác sĩ không biết chính xác nguyên nhân của bệnh viêm đại tràng dị ứng nhưng nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, có thể do trẻ sơ sinh có phản ứng dị ứng hoặc quá mẫn cảm với một số thành phần trong sữa mẹ. Ngoài ra, viêm đại tràng dị ứng ở trẻ sơ sinh còn có thể do ký sinh trùng, vi rút hoặc ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn.(1)
Nguyên nhân của bệnh viêm đại tràng
Theo bác sĩ Trung, có nhiều nguyên nhân gây ra bệnh viêm đại tràng nhưng phần lớn là do chế độ ăn uống không điều độ, thiếu khoa học như đồ ăn thức uống mất vệ sinh, đồ ăn ôi thiu, khó tiêu, gây hại cho niêm mạc đại tràng; có giun sống ký sinh trong ruột; chế độ sinh hoạt không hợp lý như làm việc liên tục không được nghỉ ngơi, gây áp lực lên hệ tiêu hóa. Tuy nhiên không phải viêm đại tràng nào cũng có nguyên nhân rõ ràng, đôi khi không xác định được nguyên nhân cụ thể.

Đối tượng dễ mắc bệnh viêm đại tràng
Các yếu tố nguy cơ khác nhau có liên quan đến từng loại viêm đại tràng. Ví dụ như nguy cơ mắc bệnh Crohn và viêm loét đại tràng (UC) cao hơn nếu ở độ tuổi từ 15 – 30 (phổ biến nhất) hoặc 60 – 80, là người gốc Do Thái hoặc da trắng, tiền sử gia đình có người bị UC, hút thuốc là, sử dụng thuốc ngừa thai hoặc giảm đau NSAID.

Nguy cơ mắc viêm đại tràng giả mạc (PC) cao hơn đối với người dùng thuốc kháng sinh dài hạn, đang nằm viện, đang được hóa trị, đang dùng thuốc ức chế miễn dịch, người cao tuổi, đã từng mắc PC trước đây.

Nguy cơ mắc viêm đại tràng do thiếu máu cục bộ (IC) cao hơn đối với người trên 50 tuổi, đang mắc bệnh tim hoặc có nguy cơ mắc bệnh suy tim, huyết áp thấp, đã được phẫu thuật bụng…

Bác sĩ Trung cho rằng, đối với những người có yếu tố/nguy cơ mắc bệnh viêm đại tràng càng nên chủ động tới bệnh viện khám sức khỏe định kỳ để tầm soát, phát hiện và điều trị kịp thời.

Triệu chứng viêm đại tràng
Triệu chứng viêm đại tràng mãn tính: Triệu chứng tùy thuộc nguyên nhân gây viêm đại tràng. Người bệnh thường có các biểu hiện như đau bụng kéo dài ở nửa khung đại tràng trái và hai hố chậu, cơn đau thường giảm khi đã đi đại tiện; Phân bất thường chủ yếu là phân lỏng và đi nhiều lần trong ngày. Tuy nhiên, cũng nhiều trường hợp táo bón, phân lẫn máu hoặc nhầy; cơ thể mệt mỏi, suy nhược, sụt cân.
Triệu chứng viêm đại tràng cấp tính: Người bệnh bị đau quặn thắt bụng dưới, dọc theo khung đại tràng, có cảm giác đầy hơi, chướng bụng; rối loạn tiêu hóa phổ biến nhất là tiêu chảy, phân có thể kèm máu, đi nhiều lần trong ngày; chán ăn, mệt mỏi, có thể kèm sốt nhẹ.
triệu chứng viêm đại tràng
Người bệnh thường có triệu chứng đặc trưng là đau bụng kéo dài ở nửa khung đại tràng trái và hai hố chậu hoặc đau quặn thắt bụng dưới, dọc theo khung đại tràng.

Điều trị viêm đại tràng
Việc điều trị viêm đại tràng phụ thuộc vào nguyên nhân gây bệnh, mức độ bệnh, giai đoạn bệnh, tuổi tác, tình trạng thể chất của người bệnh…

Điều trị nội khoa: Các loại kháng sinh đường ruột thông thường hoặc các loại thuốc chống viêm như sulfasalazine (Azulfidine), mesalamine (Asacol HD, Delzicol), balsalazide (Colazal) và olsalazine (Dipentum). Hoặc corticoid (prednisone và budesonide) dành cho tình trạng viêm loét đại tràng từ vừa đến nặng và không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác. Hoặc thuốc ức chế hệ thống miễn dịch như Azathioprine (Azasan, Imuran) và mercaptopurine (Purinethol, Purixan); Cyclosporine (Gengraf, Neoral, Sandimmune); Tofacitinib (Xeljanz). Các loại sinh học được sử dụng để điều trị viêm loét đại tràng như Infliximab (Remicade), adalimumab (Humira) và golimumab (Simponi), Vedolizumab (Entyvio), Ustekinumab (Stelara).
Phẫu thuật: Trường hợp điều trị nội khoa không hiệu quả hoặc bệnh trở nên nghiêm trọng, xuất hiện biến chứng như rò, thủng, áp xe… người bệnh cần được phẫu thuật cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ ruột kết hoặc trực tràng.
Ngoài ra, để khắc phục hay hạn chế bệnh viêm đại tràng, người bệnh cần có một chế độ ăn uống và sinh hoạt hợp lý như: Hạn chế các sản phẩm từ sữa; ăn nhiều bữa nhỏ; uống nhiều nước; không dùng rượu, thuốc lá và đồ uống có chứa caffeine gây kích thích đường ruột, có một chế độ nghỉ ngơi, sinh hoạt hợp lý, thận trọng trong việc sử dụng thuốc giảm đau xương khớp cũng như thuốc kháng sinh hoặc các loại thuốc không kê toa.

Các biến chứng của viêm đại tràng
Viêm đại tràng có thể gây ra nhiều biến chứng ảnh hưởng chất lượng cuộc sống, làm tăng tỷ lệ bệnh tật và tử vong, thường gặp ở bệnh nhân viêm loét đại tràng và bệnh crohn. Các biến chứng như: chít hẹp đại tràng, rò ruột, áp xe đại trực tràng, thủng ruột hoặc phình đại tràng nhiễm độc. Viêm loét đại tràng lâu ngày còn tăng nguy cơ phát triển ung thư ruột làm tăng tỉ lệ tử vong. Ngoài ra, các biến chứng ngoài đường tiêu hóa có thể gặp như: loãng xương, tình trạng tăng đông, thiếu máu, sỏi mật, loét áp tơ, viêm đường mật xơ hóa nguyên phát, viêm khớp…

Phương pháp chẩn đoán bệnh viêm đại tràng
Việc hỏi bệnh sử kết hợp thăm khám lâm sàng là bước đầu tiên quan trọng trong định hướng chẩn đoán các bệnh viêm đại tràng. Sau đó bác sĩ có thể cho người bệnh thực hiện các xét nghiệm cần thiết để chẩn đoán như:

Xét nghiệm máu: Xét nghiệm máu có thể giúp bác sĩ kiểm tra tình trạng thiếu máu, tình trạng nhiễm trùng, hoặc các nguyên nhân miễn dịch khác.
Xét nghiệm mẫu phân: Hồng cầu, bạch cầu hoặc ký sinh trùng trong phân có thể giúp chẩn đoán nguyên nhân viêm đại tràng chính xác hơn.
Nội soi đại tràng: Phương pháp này cho phép bác sĩ xem toàn bộ ruột kết bằng một ống mỏng, linh hoạt, có ánh sáng và được gắn camera ở đầu. Trong quá trình nội soi, bác sĩ cũng có thể lấy các mẫu mô nhỏ (sinh thiết) nhằm khẳng định chẩn đoán chính xác hơn.
Nội soi đại tràng sigma: Bác sĩ sử dụng một ống nội soi mảnh, linh hoạt, có ánh sáng để kiểm tra trực tràng và đại tràng xích ma – phần dưới của đại tràng.
Chụp X-quang: Nếu người bệnh có các triệu chứng nghiêm trọng, bác sĩ có thể chụp X-quang vùng bụng tiêu chuẩn để loại trừ các biến chứng nghiêm trọng, chẳng hạn như thủng ruột kết, tắc ruột.
Chụp cắt lớp: Chụp CT vùng bụng hoặc xương chậu có thể được thực hiện nếu bác sĩ nghi ngờ biến chứng từ viêm đại tràng. Chụp CT cũng có thể tiết lộ mức độ viêm của ruột kết.
Chụp cắt lớp vi tính (CT) ruột non và cộng hưởng từ (MR) ruột: Bác sĩ có thể đề nghị một trong những xét nghiệm không xâm lấn này nếu họ muốn loại trừ bất kỳ chứng viêm nào trong ruột non. Các xét nghiệm này nhạy cảm hơn để xác định tổn thương cũng như biến chứng trong ruột non so với các xét nghiệm hình ảnh thông thường.
chẩn đoán bệnh viêm đại tràng
Chụp CT cũng có thể tiết lộ mức độ viêm của ruột kết

Phân biệt viêm đại tràng và hội chứng ruột kích thích
Viêm đại tràng: Là tình trạng viêm trong niêm mạc đại tràng. Điều này có thể xảy ra do vi khuẩn, virus, ký sinh trùng, nấm, thiếu máu hoặc tổn thương đại tràng miễn dịch không rõ nguyên nhân.

Hội chứng ruột kích thích (IBS): Là một rối loạn chức năng đại tràng. Không có tổn thương thực thể đại tràng. Bệnh nhân có thể tiêu chảy, có thể táo bón hoặc xen kẽ, thường xảy ra sau ăn. Các triệu chứng đau bụng, chướng bụng khó chịu ở bụng thường giảm sau khi đi tiêu.

Cách phòng ngừa bệnh viêm đại tràng
Chế độ ăn uống có vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa bệnh viêm đại tràng. Người bệnh nên hạn chế đồ ăn chế biến sẵn trong siêu thị, những thức ăn nhanh, thức ăn nhiều dầu mỡ, chất béo, thực phẩm chứa cafein, đồng thời tránh xa rượu, bia và thuốc lá. Thay vào đó, người dân nên uống nhiều nước, dùng thực phẩm ít chất béo; tăng cường chất xơ trong chế độ ăn, đồng thời tránh căng thẳng, stress; nên vận động mỗi ngày. Ngoài ra, người dân nên khám sức khỏe định kỳ để tầm soát bệnh tật, phát hiện và điều trị sớm bệnh viêm đại tràng. (2)

Các câu hỏi liên quan đến bệnh viêm đại tràng
1. Bệnh viêm đại tràng có nguy hiểm không?
Viêm đại tràng là bệnh lý lành tính, song nếu không được điều trị sớm và đúng cách có thể xảy ra biến chứng ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe và tính mạng của người bệnh, ví dụ như viêm phúc mạc, ung thư đại tràng…

2. Viêm đại tràng mạn có chữa khỏi được không?
Viêm đại tràng mạn như viêm loét đại tràng và bệnh Crohn không thể chữa khỏi mà chỉ có thể điều trị nhằm ngăn chặn sự tiến triển và làm giảm các triệu chứng cũng như biến chứng và ngăn ngừa bệnh tái phát.

3. Đường lây truyền của bệnh viêm đại tràng?
Viêm đại tràng do vi khuẩn, virus ký sinh trùng thường lây qua đường tiêu hóa như ăn phải thực phẩm, nước uống bị nhiễm khuẩn. Trong khi đó bệnh viêm ruột (IBS) như viêm loét đại tràng (UC) và bệnh Crohn là bệnh lý tự miễn và không rõ nguyên nhân.

Viêm đại tràng chiếm tỷ lệ cao trong số các bệnh về tiêu hóa ở Việt Nam. Nguyên nhân chủ yếu của bệnh thường xuất phát từ các sai lầm trong chế độ ăn uống và sinh hoạt. Để tránh mắc phải bệnh đại tràng, hoặc tránh để biến chứng nguy hiểm xảy ra, người dân nên nâng cao việc phòng ngừa bằng cách thiết lập một chế độ ăn, uống khoa học; sinh hoạt nghỉ ngơi hợp lý, tránh căng thẳng stress; tẩy giun định kỳ. Ngoài ra, người dân cũng nên đi thăm khám sức khỏe thường niên nhằm tầm soát, phát hiện và điều trị sớm bệnh viêm đại tràng – Bác sĩ Huỳnh Văn Trung nhấn mạnh.

Bệnh viện Tâm Anh là đơn vị thăm khám và điều trị các bệnh về tiêu hóa uy tín, trong đó có viêm đại tràng. Với đội ngũ chuyên gia và bác sĩ đầu ngành, giỏi nghề, giàu kinh nghiệm, lại được trang bị hệ thống máy móc, thiết bị y tế hiện đại hàng đầu. Đặc biệt, Trung tâm Nội soi & Phẫu thuật nội soi tiêu hóa là nơi đầu tiên ở Đông Nam Á ứng dụng dụng cụ robot cầm tay cơ học kết hợp với hệ thống phẫu thuật nội soi 3D/4K ICG Rubina trong phẫu thuật nội soi điều trị các bệnh lý đường tiêu hóa đem lại hiệu quả cao và giảm chi phí cho người bệnh.

Address

Hanoi
100000

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Sức khỏe cuộc sống posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram