24/09/2020
Hy thiêm
Cây Hy thiêm còn được gọi là cỏ dĩ, cứt lợn, hy kiêm thảo, chó đẻ, hy tiên hay hổ cao,… Tên khoa học là Siegesbeckia orientalis L. Lưu ý: Cây Hy thiêm không phải là cây cứt lợn (Ageratum conyzoides L.) mà ta vẫn dùng để nấu với bồ kết gội đầu hay vò uống lá tươi để chữa bệnh đẻ xong máu chảy nhiều, rong kinh. Đây là một vị thuốc khác.
Theo các tài liệu ghi chép xưa, cây Hy thiêm có vị đắng, tính hàn, hơi độc, vào hai kinh can và thận. Cây chuyên được nhân dân sử dụng để làm thuốc chữa đau nhức, tê thấp, nhức xương, yếu chân, toàn thân bất toại, gân cốt nhức lạnh, lưng gối tê dại.
Phân bổ, thu hái và chế biến. Cây Hy thiêm mọc hoang ở khắp các tỉnh thành trên nước ta. Nó cũng mọc và được dùng ở cả Trung Quốc, Nhật Bản, Philipin, châu Úc và nhiều nước khác. Vì tác dụng chữa bệnh nhanh mà có nơi còn gọi loại cây này là “cỏ của trời”, “cây chữa bệnh nhanh”.
Người ta thường thu hái Hy thiêm khi nó chưa ra hoa, thường vào tháng 4-5 tùy vào từng địa phương. Cây đem về bó thành từng bó nhỏ, phơi khô trong mát mát hay ngoài nắng. Trong Bản thảo cương mục có ghi, Hy thiêm phải nấu và phơi 9 lần mới tốt, dùng tươi có thể gây nôn mửa.
Một số đơn thuốc có Hy thiêm dùng để chữa đau nhức xương khớp:
Điều trị viêm khớp do phong thấp, tê tay, tê chân, đau nhức gân cốt: Hy thiêm 3 chỉ, Bạch mao đằng 3 chỉ, Xú ngô đồng hoặc Ngưu tất 5 chỉ. Sắc uống hằng ngày.
Chữa tê mỏi, đau nhức xương: Bột Hy thiêm 10 lượng, bột Thiên niên kiện 3 lượng, bột Xuyên khung 2 lượng. Trộn lại làm thành viên, ngày uống 2 lần, mỗi lần 4-5 viên, uống cách xa bữa ăn.
Dùng trị bệnh viêm đa khớp dạng thấp, phong thấp: Lấy 4 lượng Hy thiêm, sắc lấy nước cốt, thêm đường đen, cô lại thành cao. Chia làm 2 lần uống trong ngày, mỗi lần 1 chén trà nhỏ.