
05/11/2023
KINH NGHIỆM ĐIỀU TRỊ VIÊM CƠ TIM CỦA GIÁO SƯ CAO TRẤN NGŨ
Biên soạn: Ths Bs Nguyễn Văn Trỗi, Phí Thị Thanh Hoa
Giáo sư Cao Trấn Ngũ sinh năm 1927 trong một gia đình có truyền thống 5 đời làm Đông Y ở huyện Từ Khê, tỉnh Chiết Giang. Từ năm 12 đến 20 tuổi ông miệt mài thụ chân truyền từ bố là Cao Thánh Thủy. Năm 1946 tham gia Hội nghiên cứu Châm cứu Trung Quốc Thừa Đạm An tại Tô Châu, nghiên cứu học tập châm cứu 2 năm. Năm 1947 tốt nghiệp Học viện Quốc y hàm thụ Thiên Tân. Tháng 6 năm 1948 bắt đầu hành y.
Giáo sư Cao Trấn Ngũ chuyên về châm cứu điều trị các bệnh nội khoa, đặc biệt là các bệnh về tim, kết quả nghiên cứu khoa học có:
“Quan sát lâm sàng châm cứu điều trị 220 trường hợp rối loạn nhịp tim”, đạt giải ba kết quả khoa học kỹ thuật tiên tiến của Sở y dược tỉnh;
“Quan sát lâm sàng châm cứu điều trị 54 trường hợp nhịp chậm xoang”, đạt giải hai Luận văn xuất sắc cán bộ Cục khoa học kỹ thuật tỉnh;
“Quan sát hiệu quả lâm sàng châm cứu điều trị ngoại tâm thu”, đạt giải 3 Luận văn xuất sắc cán bộ Cục khoa học kỹ thuật tỉnh, Hiệp hội khoa học tỉnh.
Giáo sư Cao cho rằng “Biện Chứng Luận Trị” là tinh hoa của Đông Y, không được xa rời. Trong quá trình làm lâm sàng ông nhận thấy nhịp tim không đều thường là do hư chứng, hay gặp có Tâm Khí Hư, Tâm Dương Hư, Khí Huyết Lưỡng Hư; Thực chứng ít gặp hoặc bản hư tiêu thực. Trong khi khám, cần tỷ mỉ khám mạch, lưỡi, điện tâm đồ… để kết hợp các triệu chứng, phân biệt các thể từ đó mới chọn huyệt điều trị.
Tóm gọn vận dụng huyệt điều trị nhịp tim bất thường của Giáo sư Cao như sau: Để điều trị Tâm Khí Hư lấy Tâm Du, Quyết Âm Du làm chủ với ý “Tạng bệnh thủ Du”, phối Đản Trung để ích Tâm khí, thông Tâm mạch. Hoặc lấy Nội Quan, Thần Môn bổ Tâm khí, An thần định tâm. Trong điều trị nhịp nhanh sớm phát hiện thì dùng Nội Quan phối Thần Môn. Điều trị nhịp tim chậm dùng Nội Quan phối Tố Liêu hoặc phối Túc Tam Lý, hoặc chỉ dùng huyệt Liệt Khuyết. Nhịp tim rất nhanh dùng Nội Quan phối Tam Âm Giao, hoặc phối Thái Xung.
Ngoài ra vô cùng chú ý sinh hoạt sau điều trị để tránh tái phát, giáo sư Cao cho rằng việc này vô cùng quan trọng để củng cố kết quả điều trị. Ông nhấn mạnh 3 điều:
Chú ý bảo vệ cơ thể khỏi nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh của môi trường, điều này chính là tránh ngoại tà trong Đông y, chữa bệnh không bằng phòng bệnh, nếu quá lạnh thì ảnh hưởng Tâm Dương, nếu quá nóng thì ảnh hưởng Tâm Âm, đều là khởi nguồn của sự tái phát bệnh.
“Tinh thần nội thủ” có nghĩa là là điều chỉnh tâm lý ở trạng thái thoải mái nhất, không suy nghĩ nhiều, không cáu giận, không buồn bã bi quan, không vủi vẻ quá khích. Trạng thái cảm xúc đối bệnh tim mà nói là vô cùng quan trọng, chỉ có chữ “Hòa” mới có thể dưỡng được gốc khiến bệnh không tái phát.
“Ăn uống có độ, nghỉ ngơi chừng mực” là tránh ăn quá no, ăn nhiều các chất béo dẽ dẫn đến đàm thấp (cholesterol) tắc nghẽn lòng mạch, làm việc quá sức cũng ảnh hưởng đến nguy cơ tái phát, chế độ ăn uống làm việc nghỉ ngơi hợp lý mới là chân lý chữa được gốc rễ của bách bệnh.
______________________________
CHÂM CỨU ĐIỀU TRỊ VIÊM CƠ TIM
Thẩm xx, nam, 50 tuổi, công nhân, khám lần đầu ngày 10/09/1979.
Triệu chứng chính: Viêm cơ tim khoảng 10 tháng.
Bệnh sử: Tháng 12 năm 1978, bệnh nhân nhập viện điều trị vì sốt cao, hồi hộp trống ngực, được chẩn đoán là viêm cơ tim do virus, sau khi hạ sốt để lại di chứng ngoại tâm thu. Sau khi xuất viện, dùng thuốc đông y và tây y điều trị ngoại tâm thu hơn 3 tháng, hiệu quả không rõ rệt, đầu tháng trước bị tai biến, liệt nửa ngoài trái, đến nay đã hơn một tháng, bệnh viện nào đó chẩn đoán là nhồi máu não. Có tiền sử tiền đình, cao huyết áp hơn 2 năm. Nay cảm thấy tức ngực, tâm quý, liệt nửa người trái, ngủ không yên giấc. Ăn uống, đại tiểu tiện vẫn ổn.
Kiểm tra: Hạn chế vận động tay, chân trái, đi không vững, chất lưỡi đỏ, rêu trắng bẩn, mạch tế mà huyền, có nhiều nhịp tương tự như kết. Kiểm tra huyết áp 152/90mmHg. Kiểm tra điện tâm đồ: ① ngoại tâm thu thất nhanh, ② dày thành thất trái.
Chẩn đoán: Tâm quý (viêm cơ tim), thể âm hư dương kháng.
Điều trị: Ninh tâm định quý, sơ điều kinh khí.
Phương huyệt: Nội Quan, Túc Tam Lý, Tam Âm Giao, Thái Xung, Phong Trì, Khúc Trì, Hoàn Khiêu
Thao tác: Bệnh nhân nằm ngửa, chọn dùng kim hào châm số 32, 1.5 thốn, dựa theo thứ tự thực hiện châm cứu (trừ huyệt Hoàn Khiêu), dùng thủ pháp bình bổ bình tả, niệm chuyển kết hợp với đề sáp, cảm giác “đắc khí” ở mức vừa phải, bệnh nhân cảm thấy phù hợp, có thể chịu đựng được, mỗi huyệt vê kim khoảng 15 – 30 phút, sau đó lưu kim 10 phút. Trong quá trình lưu kim, mỗi 5 phút lại niệm chuyển đề sáp vê kim vài lần, hơi nhanh ngắn để tăng cường cảm giác kim. Sau khi rút kim, bệnh nhân đổi sang nằm nghiêng phải, theo tư thế lấy huyệt Hoàn Khiêu, thao tác tương tự, cảm giác “đắc khí” ở mức vừa phải, có cảm giác lan theo đường kinh xuống dưới chân là tốt nhất, niệm chuyển kết hợp đề sáp (biên độ nhỏ), vê kim khoảng 1 phút thì rút kim.
Ngày 12 tháng 9 tái khám: sau khi châm cứu tự cảm thấy đỡ tức ngực, tối nằm dễ chịu hơn. Giữ nguyên phương huyệt, thao tác như trước, lưu kim lâu hơn, kéo dài 20 phút.
Ngày 14 tháng 9 khám lần 3: mạch kết đợi đã giảm bớt, bệnh nhân nói châm cứu có hiệu quả. Cách điều trị như trước.
Cứ như vậy, cách 1~2 ngày, điều trị châm cứu 1 lần, sau 8 lần ngoại tâm thu đã giảm, thỉnh thoảng mới phát, các triệu chứng tâm quý, huyễn vựng giảm nhẹ rõ. Tiếp tục điều trị 5 lần, tự cảm thấy các triệu chứng đã hết, mạch tượng, rêu lưỡi bình thường. Huyết áp 128/81mmHg. Kiểm tra điện tâm đồ bình thường. Sau đó điều trị tiếp liệt nửa người trái.
Ngày 20 tháng 12 năm 1979 kiểm tra lại, điện tâm đồ bình thường, cảm giác chủ quan bình thường. Còn liệt nửa người trái, tiếp tục điều trị.
Ngày 12 tháng 11 năm 1981 hỏi thăm, các triệu chứng chủ quan và mạch tượng đều bình thường, hàng ngày đi làm bình thường.
Lời bình: Căn cứ vào các biểu hiện về chứng, mạch, lưỡi của bệnh nhân, biện chứng là tâm quý, huyễn vựng, thể âm hư dương kháng. Bệnh vị chủ yếu tại hai tạng tâm, can và các kinh lạc có liên quan, phương huyệt chọn các huyệt thuộc kinh Tâm bào, Can, Đởm và kinh Dương minh là chính.
Nội Quan là huyệt Lạc của kinh Tâm bào, thông với mạch Dương duy. “Linh khu – thiên Kinh mạch” có viết: “là động thì bệnh……trong tim máy động nhiều……là chủ mạch có bệnh, tâm phiền, tâm thống……”, lại nói “Biệt của kinh Thủ thiếu âm, gọi là Nội Quan……tuần kinh đi lên nối với tâm bào, lạc với tâm hệ, tâm hệ thực thì tâm thống, lấy chỗ giữa hai cân”. “Nạn kinh – Nạn thứ 29” viết: “Âm duy vi bệnh khổ tâm thống.” Cho nên, dùng huyệt Nội Quan để điều trị các bệnh lý tạng tâm đã có từ lâu. Kinh mạch và biệt lạc của Thủ quyết âm có quan hệ mật thiết với tâm hệ, nội quan là huyệt đầu tay.
Túc Tam Lý là huyệt Hợp của kinh Vị, kinh Túc dương minh biệt thông với Tâm, Dương minh là kinh đa khí đa huyết, Túc Tam Lý có tác dụng mạnh tâm khí, ích tâm huyết, hòa giáng khí huyết, bình quý trị huyễn vựng.
Tam Âm Giao là giao huyệt của ba kinh Tỳ, Thận, Can, mạch Thái âm tỳ “chú tâm trung”, mạch Thiếu âm thận “lạc tâm”, kinh biệt của Túc quyết âm hợp với Thiếu dương “thượng quán tâm”, ba kinh Tỳ, Thận, Can có quan hệ mật thiết với tạng tâm, cho nên huyệt Tam Âm Giao có tác dụng bổ tâm huyết, điều trị bệnh lý của tâm, giao thông tâm thận, tư âm tiềm dương…
Phong Trì là du huyệt của kinh Đởm, can đởm có quan hệ biểu lý, kinh biệt của Túc thiếu âm “thượng quán tâm”, huyệt này có tác dụng tráng đởm ninh tâm, an thần tiềm dương, dự phòng tái phát trúng phong.
Thái Xung là huyệt Nguyên của kinh Can, kinh Túc quyết âm “hội với mạch Đốc ở đỉnh đầu”, kinh biệt của Túc quyết âm “thượng quán tâm”, chọn huyệt Thái Xung có thể dưỡng âm tiềm dương, an thần ninh tâm.
Khúc Trì là huyệt Hợp của kinh Dương minh, Dương minh là kinh đa khí đa huyết, vừa có thể bình giáng huyết áp, lại có thể sơ điều kinh khí của chi trên, điều trị liệt chi trên.
Hoàn Khiêu là du huyệt của kinh Túc thiếu dương, lại giao hội với Túc thái dương, kết hợp với các huyệt ở chi dưới kể trên, có tác dụng sơ điều kinh khí chi dưới, điều trị liệt chi dưới. Bệnh nhân này biện chứng là thể âm hư dương kháng, hư trung có thực, cho nên dùng pháp hào châm bình bổ bình tả. Bệnh nhân này do điều trị kịp thời, huyệt vị và thao tác phù hợp với bệnh tình và thể chất của bệnh nhân, cho nên hiệu quả tương đối hài lòng.