08/03/2022
𝑲𝒊𝒆̂̉𝒎 𝒕𝒓𝒂 𝒉𝒖𝒚𝒆̂́𝒕 đ𝒐̣̂𝒏𝒈 𝒌𝒉𝒐̂𝒏𝒈 𝒙𝒂̂𝒎 𝒍𝒂̂́𝒏 đ𝒆̂̉ 𝒉𝒖̛𝒐̛́𝒏𝒈 𝒅𝒂̂̃𝒏 𝒄𝒂́𝒄 𝒒𝒖𝒚𝒆̂́𝒕 đ𝒊̣𝒏𝒉 𝒄𝒐́ 𝒈𝒊𝒂́𝒐 𝒅𝒖̣𝒄 𝒕𝒓𝒐𝒏𝒈 𝒗𝒊𝒆̣̂𝒄 𝒒𝒖𝒂̉𝒏 𝒍𝒚́ 𝒃𝒆̣̂𝒏𝒉 𝒏𝒉𝒂̂𝒏 𝑪𝑶𝑽𝑰𝑫-19
Sự phân bố nhanh chóng trên toàn cầu của COVID-19 đang thách thức các hệ thống chăm sóc sức khỏe trên toàn thế giới. Ở nhiều quốc gia, các bệnh viện và khoa ICU bị quá tải hoặc có nguy cơ sụp đổ, cần phải có sự phân bổ tối ưu các nguồn lực chăm sóc sức khỏe. Các chuyên gia chăm sóc sức khỏe buộc phải điều trị cho những bệnh nhân bị bệnh nặng bị hạn chế tiếp cận với thiết bị thông gió, nhân viên chăm sóc đặc biệt có trình độ hoặc các thiết bị theo dõi bệnh nhân bảo vệ. Nỗ lực ngăn chặn tình trạng bệnh nhân COVID-19 bị suy giảm và nhập viện ICU là rất lớn.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)1 đã xác định những thách thức và tóm tắt các biện pháp khuyến cáo trong các giai đoạn bệnh khác nhau.
Trong giai đoạn khám sàng lọc ban đầu, khi bệnh nhân đến cấp cứu, việc nhận biết sớm bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh nặng hoặc tử vong do các bệnh lý tim mạch đi kèm là rất quan trọng. Ở những bệnh nhân lớn tuổi, ngay cả những triệu chứng nhẹ cũng có thể có nguy cơ xấu đi cao, do đó những bệnh nhân này nên được gửi đến các đơn vị được chỉ định để theo dõi tim mạch chặt chẽ và liên tục.1
Để tránh tình trạng xấu đi và tiến triển của các triệu chứng ở những bệnh nhân bị bệnh nặng, việc theo dõi thường xuyên các dấu hiệu sinh tồn bằng cách sử dụng các điểm cảnh báo sớm được coi là điều cần thiết. Quản lý truyền dịch thận trọng có thể hữu ích ở giai đoạn đầu vì quá tải dịch có thể dẫn đến không đủ oxy và các biến chứng hô hấp cần thở máy và nhập viện ICU.
Đối với những bệnh nhân mắc bệnh nặng trong ICU, trong số các biện pháp khác, việc theo dõi các chỉ số động về khả năng đáp ứng truyền dịch vẫn là một công cụ không thể thiếu để hướng dẫn quản lý thể tích tiết kiệm để chống lại tình trạng quá tải dịch, Nhiễm trùng hô hấp cấp nặng (SARI) hoặc sốc nhiễm trùng, cũng như tổn thương thận/ tim cấp tính hoặc suy cơ quan do giảm thể tích tuần hoàn.2
Hơn nữa, WHO nêu rõ sự cần thiết phải “áp dụng các liệu pháp hỗ trợ kịp thời, hiệu quả và an toàn” như là nền tảng của liệu pháp điều trị cho bệnh nhân COVID-19 có biểu hiện nặng để hỗ trợ quá trình phục hồi khỏi vi rút.
Cho đến nay, huyết áp, cung lượng tim và các thông số huyết động khác có thể được đo dễ dàng và không xâm lấn bằng cách sử dụng ngón tay của bệnh nhân để hỗ trợ việc đưa ra quyết định có giáo dục trong việc quản lý bệnh nhân COVID-19. Tình trạng tim mạch có thể được theo dõi toàn diện hơn là chỉ theo dõi huyết áp. Điều này cho phép kiểm soát tốt hơn việc quản lý chất lỏng trong các tình huống không thể sử dụng các phương pháp theo dõi huyết động học tiên tiến cổ điển do nguồn lực hạn chế về thời gian, thiết bị hoặc nhân viên có trình độ hoặc đơn giản là không được chỉ định.
Một monitor không xâm lấn nhanh chóng và đơn giản tạo sự thoải mái cho bệnh nhân, tiết kiệm thời gian quý báu và cho phép phân bổ nhân sự tốt hơn. Ngoài việc cung cấp oxy, phản hồi ngay lập tức và chính xác về tình trạng tim mạch có thể giúp duy trì mức huyết áp thích hợp (MAP> 65 mmHg). Việc xác định bệnh nhân có suy giảm cung lượng tim để chỉ đạo quản lý truyền dịch từ khoa cấp cứu đến khoa chăm sóc đặc biệt là quan trọng, đặc biệt khi không áp dụng được phương pháp theo dõi xâm lấn hoặc thời gian và nguồn lực hạn chế. Các công nghệ không xâm lấn đã được thành lập như những công cụ đáng tin cậy và chính xác để Tối ưu hóa truyền dịch ở bệnh nhân phẫu thuật.[3,4] Cho đến nay, chúng cũng chứng tỏ giá trị cao trong việc quản lý tim mạch hiệu quả về thời gian đối với bệnh nhân COVID-19.
References:
1 World Health Organisation. Clinical management of severe acute respiratory infection (SARI) when COVID‐19 disease is suspected. 2020;1–21.
2 Bellamy, M. C. (2006). Wet, dry or something else? British Journal of Anaesthesia, 97(6), 755–7
3 Renner, J., Gruenewald, M.,et al.. (2017). Non‐invasive assessment of fluid responsiveness using CNAP TM
technology is interchangeable with invasive arterial measurements during major open abdominal surgery. British Journal of Anaesthesia, 118(1), 58–67. http://doi.org/10.1093/bja/aew399
4 Benes, J., Haidingerova, L., Pouska, J et al. (2015). Fluid
management guided by a continuous non‐invasive arterial pressure device is associated with decreased postoperative morbidity after total knee and hip replacement. BMC Anesthesiology, 15(1), 148. http://doi.org/10.1186/s12871‐015‐0131‐8
Nguồn: Tiến sĩ Jürgen Fortin
Giám đốc điều hành & Giám đốc khoa học CNSystems / Austria fortin@cnsystems.com