21/11/2025
NHƯỢC CƠ
. Phương hướng điều trị
Nhược cơ nặng là bệnh tự miễn, trong đó căn bản bệnh cơ học theo y học cổ truyền là tổn thương Tỳ Thận; vì bổ Tỳ ích Thận, thăng dương cố phát làm pháp trị chính. biện lập phương Hoàng kỳ hợp phương gia giảm ứng dụng lâm sàng, tùy chứng bổ biến và đạt được hiệu quả tốt.
Phương gồm các vị như Hoàng kỳ, Phòng phong, Bạch truật, Thăng ma, Câu kỷ tử… đều là những vị tính vị ôn hòa, vừa bổ âm vừa bổ dương, không dùng các phương đại ôn đại táo. Giá thành thấp, tránh cho bệnh nhân phải dùng lâu dài các vị cay nhiệt có thể tổn thương âm và làm hại dương; đồng thời giảm gánh nặng tài chính cho người bệnh.
Thường phải cho bệnh nhân dùng thuốc liên tục trong khoảng 2 năm thì bệnh tình mới vào giai đoạn ổn định. Căn cứ vào từng biểu hiện lâm sàng cụ thể sẽ quyết định thời điểm ngừng thuốc hoặc chỉ duy trì uống 1 thang thuốc ngày. Hoàng kỳ hợp phương đã được ứng dụng lâm sàng hơn 20 năm; phần lớn bệnh nhân có cải thiện rõ rệt sau 6–12 tháng dùng thuốc, dần dần có thể giảm hoặc ngưng các thuốc Tây đã dùng như pyridostigmine và prednisone, và tỉ lệ tái phát tương đối thấp.
III . Y án điều trị
1. Trường hợp bệnh nhược cơ nặng – dạng cơ vận nhãn
1.1. Tuyến ức bình thường
Y án 1: Bệnh nhân: Nữ, 46 tuổi.
Ngày khám đầu tiên: 21/7/2009.
Triệu chứng chính: Sụp mí mắt hai bên kèm nhìn đôi trong 1 năm.
Tiền sử bệnh: Một năm trước, sau khi bị cảm, bệnh nhân bắt đầu xuất hiện sụp mí hai bên và nhìn đôi. Xét nghiệm chẩn đoán nhược cơ dương tính, điện cơ cho thấy biên độ điện thế giảm hơn 15% khi kích thích lặp lại. Tuyến ức hoàn toàn bình thường, được chẩn đoán là nhược cơ dạng cơ vận nhãn.
Bệnh nhân cho biết các triệu chứng nặng lên sau khi hoạt động, nhưng giảm khi nghỉ ngơi hoặc dùng thuốc pyridostigmine. Đã điều trị ở nhiều nơi, bệnh tiến triển lúc nhẹ lúc nặng. Hiện đang dùng pyridostigmine 2 viên/lần, 3 lần/ngày.
Khám hiện tại:
Hai mí mắt sụp, mức sụp tương đương từ vị trí 9 giờ đến 3 giờ, nâng mí yếu. Có nhìn đôi, không có rối loạn nhai hoặc nói.
Cảm giác khó chịu vùng dạ dày nhẹ, ăn uống và đại tiểu tiện bình thường, ngủ bình thường.
Lưỡi đỏ, rêu vàng mỏng, mạch vi trầm .
Chẩn đoán:
Tây y: Nhược cơ (dạng cơ vận nhãn).
Đông y: Chứng nuy do Tỳ Thận hư tổn.
Nguyên tắc điều trị: Bổ ích Tỳ Thận, thăng dương, nâng chính khí.
Đơn thuốc ban đầu (6 thang, sắc uống 1 thang/ngày): Hoàng kỳ 50g, Đương quy 15g, Phòng phong 10g, Sơn thù du 15g, Câu kỷ tử 15g, Hà thủ ô 15g, Sa sâm 25g, Ích mẫu 25g, Chỉ xác 15g.
Tái khám lần 2 (18/12/2009): Sau thời gian uống thuốc sắc, bệnh nhân cho biết sụp mí đã giảm rõ, nhìn đôi biến mất, nhưng có khó ngủ. Lưỡi đỏ, rêu mỏng trắng, mạch trầm huyền.
Đơn thuốc gia giảm (30 thang, sắc uống 1 thang/ngày): Giữ nguyên bài trên, thêm Toan táo nhân 25g, Dạ giao đằng 25g, Sơn dược sống 25g
Giải thích: Bệnh nhân mất ngủ do tâm thần không được nuôi dưỡng nên thêm Toan táo nhân và Dạ giao đằng để dưỡng tâm an thần, thêm Sơn dược để tăng cường bổ khí kiện Tỳ.
Tái khám lần 3 (22/1/2010): Bệnh nhân ổn định, sụp mí giảm rõ, nâng mí được gần bình thường (khoảng 11–2 giờ). Xuất hiện khô mắt, mệt mỏi, cơ giật nhẹ, phân lỏng, miệng khô. Lưỡi đỏ có rãnh, rêu mỏng trắng, mạch trầm. Vẫn dùng pyridostigmine 1 viên/lần, 3 lần/ngày.
Đơn thuốc mới (30 thang, sắc uống 1 thang/ngày): Bách hợp 30g, Sinh địa 15g, Long cốt sống 25g, Bạch thược 25g, Cam thảo 10g, Sa sâm 25g, Mạch môn 15g, Câu kỷ tử 15g, Sơn thù du 15g, Cúc hoa 15g, Xuyên khung 5g.
Giải thích: Bệnh nhân tuổi trung niên, bệnh lâu ngày khiến âm dương đều tổn hại, xuất hiện các biểu hiện khô mắt, khát nước. Dùng phương bổ âm như Bách hợp – Sinh địa để tư dưỡng âm dịch, ý nghĩa là trong âm cầu dương.
Kết quả điều trị:
Bệnh nhân kiên trì dùng thuốc liên tục 2 năm. Hiện tại không còn triệu chứng rõ rệt, đã ngưng pyridostigmine, sức khỏe ổn định và trở lại sinh hoạt, làm việc bình thường.
Ghi chú: Nhược cơ nặng đặc trưng bởi sụp mi một bên hoặc hai bên, yếu mềm tứ chi, buổi sáng nhẹ chiều tối nặng, tiến triển tăng dần, có khi kèm khó nuốt, nói khó rõ. Trong y lý cổ truyền, nó thuộc phạm vi rộng của chứng nuy. Bệnh sinh do thể chất bẩm yếu, hoặc lao lực quá độ, hoặc ăn uống và sinh hoạt thất điều làm tổn thương Tỳ Thận, lại gặp ngoại tà mà khiến cân mạch mất nuôi dưỡng; căn bản bệnh cơ yếu chủ yếu là do Tỳ và Thận hư.
Tỳ là gốc của hậu thiên, là nguồn sinh hóa khí huyết, cư ở trung tiêu, là trục của việc thăng giáng khí cơ. Nếu Tỳ khỏe thì Phế có nguồn tân dịch, Can Thận được dưỡng, các gân cơ và dây chằng được nhu dưỡng, các cơ quan hoạt động bình thường. Vì Tỳ chủ thăng và vận, nếu Tỳ hư khiến khí hạ thì mất sức nâng, vùng mặt trên thuộc Tỳ nên có thể gây mất lực nâng mặt dẫn tới sụp mí; nếu Tỳ Thận hư tổn kéo dài sẽ làm Can huyết thiếu, Thận tinh hao tổn, tinh thần thị giác kém, từ đó xuất hiện nhìn đôi. Do đó, điều trị cần tập trung bình bổ Tỳ Thận, thăng dương ôn bổ.
Bài thuốc này lấy Hoàng kỳ vị bổ khí kiện Tỳ làm chủ; phối hợp Câu kỷ tử và Hà thủ ô để bổ cả âm lẫn dương của thận làm thứ; kết hợp Bạch truật, Sa sâm, Sơn dược để kiện Tỳ và hành khí, dùng Đương quy làm tá; Ích mẫu để hoạt huyết; Toan táo nhân và Dạ giao đằng để dưỡng Tâm an thần; Chỉ xác có tính bổ mà không gây ứ trệ, làm cho toàn phương vừa có tác dụng bổ hòa Tỳ Thận, tăng cơ kiện lực, đồng thời có tác dụng thanh hư nhiệt và an thần, điều trị được cả gốc lẫn ngọn. Khi bệnh đã ổn định, nếu thấy tình trạng thiếu âm rõ rệt thì châm thêm pháp tư âm bổ dịch, tức là trong âm cầu dương nhằm khôi phục cân bằng âm dương cho cơ thể.
(ẢNH MINH HỌA)