Quầy Thuốc Hoa Tâm 2

Quầy Thuốc Hoa Tâm 2 ���QUẦY THUỐC HOA TÂM 2 ���
�THUỐC TỐT- TẬN TÂM �
---------------------------
� PHỤC VỤ SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG VỚI CHẤT LƯỢNG THUỐC TỐT - TƯ VẤN TẬN TÂM.

12/09/2024

Các huynh đệ chạy xuyên đêm hướng về hỗ trợ bà con vùng lũ lụt thiên tai . Thương lắm Việt Nam ơi!

👉🏻 HOẠT HUYẾT DƯỠNG NÃO - vấn đề mà nhiều người quan tâm ạ❤️-Hoạt huyết tăng cường lưu thông máu trong cơ thể sẽ giúp tr...
10/08/2024

👉🏻 HOẠT HUYẾT DƯỠNG NÃO - vấn đề mà nhiều người quan tâm ạ❤️

-Hoạt huyết tăng cường lưu thông máu trong cơ thể sẽ giúp trị các chứng do huyết hư ứ trệ gây ra.

Những hệ lụy khi lưu thông máu kém

Lưu thông máu kém có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và khả năng hoạt động hàng ngày.

Dưới đây là một số hệ lụy phổ biến khi lưu thông máu kém:

1.Suy giảm chức năng não

Máu cung cấp oxy và dưỡng chất cho não. Khi lưu thông máu kém, não không nhận đủ oxy, dẫn đến giảm khả năng tập trung, suy giảm trí nhớ và khả năng tư duy. Trong trường hợp nghiêm trọng, có thể gây ra các triệu chứng như chóng mặt, đau đầu, hoa mắt, suy giảm khả năng ghi nhớ…

2.Mệt mỏi và thiếu năng lượng

Khi máu không được lưu thông tốt, các cơ quan và mô không nhận đủ oxy và dưỡng chất cần thiết, dẫn đến cảm giác mệt mỏi và thiếu năng lượng. Điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng làm việc và sinh hoạt hàng ngày.

3.Đau và nhức mỏi cơ bắp

Thiếu lưu thông máu gây ra tình trạng co thắt và đau nhức cơ bắp. Những vùng cơ bị ảnh hưởng thường cảm thấy đau, căng cứng và nhức mỏi, đặc biệt là sau khi vận động.

4.Các vấn đề về da

Lưu thông máu kém có thể khiến da trở nên nhợt nhạt, thiếu sức sống, loét da, nhiễm trùng và chậm lành vết thương.

5.Tê bì tay chân

Khi máu không lưu thông tốt, các ngón tay và ngón chân có thể trở nên tê bì hoặc cảm giác như kim châm.

6.Suy giảm chức năng tim mạch

Lưu thông máu kém làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch như bệnh mạch vành, cao huyết áp, suy tim, tắc nghẽn mạch máu, gây ra nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ.

Nếu tình trạng lưu thông máu kém kéo dài, các cơ quan và mô trong cơ thể có thể bị tổn thương vĩnh viễn, dẫn đến suy giảm chức năng nghiêm trọng và tăng nguy cơ mắc các bệnh mãn tính.
Continue...

01/06/2024

✨ Lòng biết ơn, một khái niệm quen thuộc và vô cùng sâu sắc, không chỉ là miệng nói lời “cảm ơn” trong những dịp cần thiết. Biết ơn mang một ý nghĩa rộng lớn hơn thế: Nó là sự HIỂU BIẾT sâu sắc về những giá trị mà người khác mang lại cho cuộc sống của mình.
Đây không chỉ là một cảm xúc đơn thuần mà là sự kết hợp giữa TRÍ TUỆ và ĐẠO ĐỨC.
"Biết" trong biết ơn là thể hiện của trí tuệ – là khả năng nhận thức và đánh giá đúng đắn những đóng góp của người khác vào đời sống của chính mình.
"Ơn" lại chính là phần đạo đức, nơi mà lòng biết ơn thể hiện qua những hành động thiết thực, những lời nói chân thành, và thái độ sống trân trọng.
Trong giáo dục, thay vì chỉ dạy trẻ nói lời cảm ơn một cách máy móc, chúng ta nên dạy chúng cách hiểu và trân trọng sâu sắc giá trị của người khác. Điều này không những giúp trẻ phát triển kỹ năng sống mà còn là bài học đạo đức vô giá.
Biết ơn mà không gắn liền với TRÍ TUỆ có thể dẫn đến việc biết ơn nhầm lẫn, sai đối tượng, khi đó, giá trị thực sự của lòng biết ơn bị mai một. Lòng biết ơn đích thực phải là sự thấu hiểu và trân trọng, dựa trên nền tảng trí tuệ và đạo đức vững chắc. ✨

01/06/2024
Số ca đột quỵ tăng mạnhSáng ngày 29/3, PGS.TS. Mai Duy Tôn - Giám đốc Trung tâm Đột quỵ (Bệnh viện Bạch Mai) - cho biết ...
01/04/2024

Số ca đột quỵ tăng mạnh
Sáng ngày 29/3, PGS.TS. Mai Duy Tôn - Giám đốc Trung tâm Đột quỵ (Bệnh viện Bạch Mai) - cho biết những ngày qua, Trung tâm Đột quỵ liên tục quá tải. Trung tâm có ngày phải cấp cứu gần 60 bệnh nhân đột quỵ. Có đêm, chỉ tính riêng bệnh nhân đột quỵ trẻ, đã tới 6 người vào cấp cứu, tuổi từ 22 đến 45.

Theo PGS.TS. Mai Duy Tôn, đột quỵ gia tăng và xuất hiện ở nhiều người trẻ là một vấn đề đáng lưu tâm.

Cách đây mấy ngày, chị Vũ Thị H. (42 tuổi, ở Yên Bái) được đưa vào viện vì đau đầu, tê yếu nửa người. Chị H. cho biết nửa tháng nay chị bị đau đầu tăng dần, hoa mắt, chóng mặt kèm đau nhức hai chân, đã điều trị ở nhiều nơi nhưng không đỡ. Khi chị xuất hiện tình trạng tê bì, yếu nửa người trái, người nhà đã đưa tới Trung tâm Đột quỵ.

Nhờ được các bác sĩ can thiệp nhanh chóng nên dù huyết khối nhiều tĩnh mạch não, bệnh nhân vẫn chưa có biến chứng chảy máu não, giúp việc điều trị thuận lợi.

Một nữ bệnh nhân 32 tuổi (quê Hưng Yên) đến Trung tâm Đột quỵ khi bị liệt nửa người, nói ngọng. Với chẩn đoán bệnh nhân nhồi máu não cấp do tắc động mạch cảnh, các bác sĩ lập tức đưa vào nhóm báo động đỏ.
Được song song áp dụng 2 phương pháp điều trị tiêu huyết khối và lấy huyết khối, bệnh nhân đã nói được, còn yếu nhẹ nửa người phải, NIHSS cải thiện từ 11 điểm khi vào viện xuống còn 1 điểm.

Trong một trường hợp khác, một nữ công nhân 45 tuổi nhập viện trong tình trạng lơ mơ và liệt nửa người trái. Quy trình báo động đỏ của Trung tâm được khởi động. Sau khi xác định bệnh nhân bị nhồi máu não do lóc tách động mạch cảnh trong phải - tắc động mạch não giữa phải, kế hoạch can thiệp được Trung tâm thiết lập nhanh chóng.

PGS. Mai Duy Tôn cho biết: “Lóc tách động mạch cảnh là căn nguyên đặc biệt của nhóm người bệnh nhồi máu não trẻ tuổi. Để can thiệp lấy huyết khối cho nhóm bệnh này vô cùng khó khăn”.

Tuy nhiên, với trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của các chuyên gia đột quỵ hàng đầu, bệnh nhân đã được tái thông động mạch não và lóc tách động mạch cảnh trong nhanh chóng. Nhờ đó, bệnh nhân tỉnh táo trở lại và vận động bên người bị liệt tốt hơn, tự đi lại và sinh hoạt nhẹ nhàng.
Biện pháp phòng, tránh đột quỵ được khuyến cáo
Trước tình trạng số người đột quỵ tăng nhanh thời gian gần đây, nhất là ở số người trẻ, PGS.TS. Mai Duy Tôn khuyến cáo 3 cách phòng, tránh đột quỵ: Mọi người, nhất là các bạn trẻ, nên thường xuyên tập luyện, vận động, kiểm soát cân nặng, từ bỏ thói quen hút thuốc, ăn uống không lành mạnh. Tầm soát các yếu tố nguy cơ của đột quỵ: tim mạch, huyết áp, mỡ máu, tiểu đường…

Khi có một trong các biểu hiện của đột quỵ (giảm thị lực, yếu tay chân, nói ngọng/nói khó, đau đầu, chóng mặt…) cần đưa người bệnh đến ngay các đơn vị điều trị đột quỵ để được chẩn đoán, điều trị kịp thời.
Một số vấn đề về đột quỵ được PGS.TS. Mai Duy Tôn đặc biệt khuyến cáo:

ĐỘT QUỴ NÃO RẤT NGUY HIỂM

Đột quỵ não là bệnh rất nguy hiểm, thường gặp ở Việt Nam với khoảng 200 người mắc mỗi năm. Nhiều năm qua, đột quỵ não vẫn là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở nước ta. Những bệnh nhân may mắn được cứu sống thì thường để lại di chứng nặng nề, là nguyên nhân gây tàn tật hàng đầu, từ mức độ nhẹ như rối loạn cảm giác, thay đổi tính cách đến mức độ nặng hơn như liệt vận động, không đi lại được, khó khăn trong giao tiếp, suy giảm nhận thức, đến mức độ nặng như hôn mê, sống thực vật, v.v..

THỜI GIAN VÀNG

Thời gian vàng trong điều trị đột quỵ là 270 phút nếu sử dụng thuốc tiêu huyết khối làm tan cục máu đông, hoặc trong 6-8 giờ nếu lấy huyết khối cơ học trong trường hợp tắc động mạch lớn trong não.

Tuy nhiên, nếu bệnh nhân càng được điều trị sớm trong khoảng thời gian này, cơ hội phục hồi, ít để lại di chứng càng cao. Ngược lại, nếu càng điều trị muộn trong cửa sổ thời gian này, cơ hội phục hồi càng thấp đi.

Do vậy, khi phát hiện bệnh nhân đột quỵ não, cần đưa bệnh nhân vào viện ngay để điều trị càng sớm càng hiệu quả.

NHỮNG ĐIỀU KHÔNG NÊN LÀM VỚI BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ

Không cho phép người bệnh tự lái xe đến bệnh viện: Hãy gọi 115 hoặc chờ đợi sự giúp đỡ.

Không được cho người bệnh uống thuốc: Bạn không biết loại đột quỵ não nào mà người bệnh đang mắc phåi, nên không được cho uống bất kỳ loại thuốc nào có thể làm chảy máu nặng hơn.

Không cho người bệnh ăn hoặc uống bất cứ thứ gì: Bệnh nhân bị đột quỵ thường không tỉnh táo và có thể có rối loạn nuốt, do đó, cho ăn hoặc uống có thể bị nghẹn, gây sặc dẫn đến suy hô hấp, viêm phổi sau đó.
Nguồn:

Thời báo cập nhật tin tức Việt Nam và thế giới. Phân tích, bình luận chuyên sâu mảng kinh tế, quốc tế và y tế dưới góc nhìn truyền thông số

“Nghề thuốc là một nghề thanh cao, là một nghề có lòng nhân. Đạo làm thuốc là một nhân thuật có nhiệm vụ giữ gìn tính mạ...
27/02/2024

“Nghề thuốc là một nghề thanh cao, là một nghề có lòng nhân. Đạo làm thuốc là một nhân thuật có nhiệm vụ giữ gìn tính mạng người ta, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc giúp người, làm phận sự của mình mà không cầu lợi kể công..."
- DANH Y VIỆT NAM: Hải Thượng Lãn Ông LÊ HỮU TRÁC -
---------------------------------------------------------
Quầy Thuốc Hoa Tâm 2 036.444.9302
Địa chỉ: Quầy thuốc cổng chợ Dục Tú- Đông Anh- Hà Nội



# Thuốc tốt, tận tâm
Dược sĩ đại học: Trần Thị Hoa
Hotline: 0364449302

👉🏻👉🏻👉🏻 LOÉT DẠ DÀY _ TÁ TRÀNG😩😩😩    Loét dạ dày – tá tràng là một căn bệnh phổ biến ở nước ta cũng như trên thế giới. Th...
12/10/2023

👉🏻👉🏻👉🏻 LOÉT DẠ DÀY _ TÁ TRÀNG😩😩😩

Loét dạ dày – tá tràng là một căn bệnh phổ biến ở nước ta cũng như trên thế giới. Theo ước tính, có khoảng 11 – 15% dân số ở nước ta gặp phải căn bệnh này với tỷ lệ mắc suốt đời là khoảng 11 – 14% ở nam giới và 8 – 11% ở nữ giới. Mặc dù đây không phải là một bệnh lý quá nghiêm trọng, tuy nhiên nó có khả năng ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng đời sống của bệnh nhân. Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại thuốc được dùng điều trị loét dạ dày – tá tràng và mỗi loại thuốc cũng như nhóm thuốc đều có mỗi tác dụng riêng.

Thuốc kháng acid
Sơ lược về nhóm thuốc kháng acid (antacid)
Các thuốc thuộc nhóm kháng acid bao gồm: Calci carbonat, sodium citrate, Magie Hydroxyd, nhôm hydroxide,Magnesi trisilicat …

Việc sử dụng thuốc kháng acid có lẽ bắt đầu vào thế kỷ đầu tiên khi Celsus sử dụng đất trung hòa để điều trị chứng đầy bụng. Sau đó, chúng chính thức được dùng như một chất chữa lành vết loét vào năm 1856, khi William Brinton sử dụng potassium bicarbonate kết hợp với bismuth để điều trị bệnh nhân loét dạ dày.

Sau tuyên bố của Schwarz vào năm 1910 trong câu châm ngôn nổi tiếng của ông, “không axit – không gây loét”, Bertram Sippy đã đi tiên phong trong việc sử dụng thuốc kháng acid để điều trị bệnh loét dạ dày tá tràng vào năm 1915. Trong 50 năm sau đó, thuốc kháng acid đã được sử dụng rộng rãi và ngày càng phổ biến hơn. Vào năm 1952, Pickering đã chứng minh rằng sự trung hòa của các thành phần acid trong dạ dày giúp giảm đau do loét dạ dày tá tràng.

Tuy nhiên, việc phát hiện ra các chất ức chế bơm proton đã cách mạng hóa việc điều trị bệnh loét dạ dày tá tràng. Hiện nay, việc sử dụng thuốc kháng acid bị hạn chế để làm giảm bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) có liên quan đến chứng ợ nóng.

Cơ chế hoạt động nhóm thuốc kháng acid (antacid)
Các thuốc kháng acid có tốc độ khởi phát tác dụng nhanh, làm giảm độ acid của dạ dày bằng cách trung hòa lượng acid có trong dịch vị, nâng độ pH của dạ dày lên 4. Hơn nữa, thuốc cũng làm tăng cường sự bài tiết của các yếu tố bảo vệ niêm mạc dạ dày như chất nhầy, bicarbonate và prostaglandin.

Tác dụng không mong muốn nhóm thuốc kháng acid (antacid)
Các tác dụng phụ của thuốc kháng acid dạ dày thường không đáng kể vì chúng rất ít được hấp thu vào máu. Tuy nhiên, táo bón và tiêu chảy là hai tác dụng phụ điển hình của hai loại thuốc kháng acid được sử dụng nhiều nhất, Al(OH)3 và Mg(OH)2. Do đó, trên thị trường hiện nay thường kết hợp cả hai hoạt chất này trong cùng một chế phẩm để cân bằng tác dụng phụ của nhau.

Cách dùng nhóm thuốc kháng acid (antacid)
Các thuốc kháng acid có đặc điểm là phải sử dụng nhiều lần trong ngày để làm giảm acid dịch vị.

Thuốc được uống sau bữa ăn từ 1 – 2 giờ (khi dạ dày tăng tiết acid) và trước khi đi ngủ.

Lưu ý khi sử dụng nhóm thuốc kháng acid (antacid)
Các thuốc kháng acid làm giảm sự hấp thu ở ruột của các thuốc như: cimetidin, famotidin, omeprazol… Do đó, cần phải sử dụng thuốc kháng acid sau khi uống các thuốc này trong vòng 2 giờ.

Các thuốc kháng acid làm tăng pH dạ dày, dẫn đến thay đổi sự hấp thu của các thuốc như: griseofulvin, ketoconazol, muối sắt, digoxin…

Các thuốc kháng acid làm kiềm hóa nước tiểu, làm ảnh hưởng đến sự thải trừ của nhiều thuốc như: thuốc giảm đau hạ sốt nhóm salicylat, quinidin…

Ngoài ra, bệnh nhân suy thận không được dùng thuốc kháng acid có chứa nhôm.

Thuốc giảm tiết acid
Thuốc ức chế bơm proton
Sơ lược về nhóm thuốc ức chế bơm proton (PPI)
Các thuốc thuộc nhóm ức chế bơm proton (PPI) bao gồm: Omeprazole, esomeprazole, pantoprazole, rabeprazole, lansoprazole và dexlansoprazole.

Kể từ khi omeprazole được giới thiệu vào năm 1989, các thuốc ức chế bơm proton (PPI) đã dần trở thành chất chính trong điều trị các rối loạn liên quan đến acid. Khi so sánh với các thuốc trước đó như thuốc đối kháng thụ thể histamin H2 (H2RAs), chất tương tự prostaglandin tổng hợp và thuốc kháng cholinergic, PPI đã chứng tỏ khả năng dung nạp của bệnh nhân nhất quán, tính an toàn tuyệt vời và nói chung là khả năng ức chế acid vượt trội.

Tính đến năm 2015, có sáu PPI được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chấp thuận. Việc áp dụng PPI đã được phổ biến rộng rãi trong các cơ sở dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, và sự hiện diện của chúng là đương nhiên trong kho thuốc của bác sĩ tiêu hóa hiện đại.

Đối với hầu hết, nhóm thuốc này là lựa chọn hàng đầu để điều trị viêm thực quản, bệnh trào ngược không ăn mòn (NERD), bệnh loét dạ dày tá tràng (PUD), phòng ngừa loét liên quan đến thuốc chống viêm không steroid (NSAID), hội chứng Zollinger-Ellison (ZES), và chứng khó tiêu chức năng.

Ngoài ra, kết hợp với thuốc kháng sinh, PPI cũng là một phần không thể thiếu trong liệu pháp tiệt trừ Helicobacter pylori (vi khuẩn HP).

Cơ chế hoạt động thuốc ức chế bơm proton (PPI)
Các thuốc ức chế bơm proton có khả năng ức chế trực tiếp hoạt động của bơm H+/K+ ATPase, làm cho tế bào bìa không còn khả năng tiết acid HCl, dẫn đến làm giảm lượng acid được sản xuất hằng ngày từ 80 – 95%. Tác dụng ức chế tối đa từ 2 – 6 giờ sau khi uống và thời gian tác dụng kéo dài từ 72 – 96 giờ.

Tác dụng không mong muốn thuốc ức chế bơm proton (PPI)
Các tác dụng phụ phổ biến nhất khi sử dụng thuốc ức chế bơm proton bao gồm: Buồn nôn, đau bụng, táo bón, đầy hơi và tiêu chảy. Đồng thời, bệnh nhân cũng có thể xuất hiện các triệu chứng như: Đau khớp, đau đầu và phát ban da.

Dùng PPI kéo dài cũng làm tăng nhẹ nguy cơ gãy xương

Ngoài ra, khi sử dụng thuốc ức chế bơm proton kéo dài, các tác dụng phụ khác cũng có thể xảy ra như: Nữ hoá tuyến vú, rối loạn chức năng cương dương, giảm bạch cầu, rối loạn chức năng gan, thiếu hụt vitamin B12, tăng tiết acid hồi ứng và trào ngược dạ dày – thực quản.

CARM đã ghi nhận 65 trường hợp viêm thận mô kẽ liên quan đến việc sử dụng PPI

Cách dùng thuốc ức chế bơm proton (PPI)
Các thuốc ức chế bơm proton thường được uống trước khi ăn từ 30 phút – 1 giờ (khi dạ dày trống rỗng) để tăng hiệu quả ức chế sự tiết acid của dạ dày sau khi ăn.

Chế độ liều chuẩn được khuyến cáo cho hầu hết các chỉ định của PPI. Thời gian điều trị thường tùy theo từng chỉ định, có thể kéo dài 4-8 tuần(2,5,7,8,10).

Chế độ dùng 2 lần/ngày với liều chuẩn được khuyến cáo cho những trường hợp tăng tiết acid kháng trị (GERD kháng trị, Zollinger-Ellison…) và điều trị nhiễm H.pylori

Một số liều dùng của thuốc ức chế bơm proton
Một số liều dùng của thuốc ức chế bơm proton
Theo Lind và cộng sự, với mức liều 40mg esomeprazole, thời gian mà pH dạ dày trên 4 là 16,8 giờ và pH trung bình trong 24h là 4,9, cao nhất trong các thuốc ức chế bơm proton. Nếu dùng đơn liều hoặc tăng liều gấp đôi thì hiệu lực của thuốc có tăng nhưng không đáng kể.

Tuy nhiên nếu dùng 2 lần/ngày thì hiệu quả ức chế bài tiết acid tăng lên rõ rệt. Điều này có liên quan đến thời gian tồn tại của thuốc trong máu. Hơn nữa, vì đa phần các PPI có thời gian bán hủy ngắn nên tốt nhất là dùng 2 lần/ngày.

So sánh hiệu quả của các thuốc ức chế bơm proton
Một số đặc điểm dược động học của các thuốc ức chế bơm proton phổ biến hiện nay:

Một số đặc điểm dược động học của các thuốc ức chế bơm proton phổ biến hiện nay:
Một số đặc điểm dược động học của các thuốc ức chế bơm proton phổ biến hiện nay:
Sinh khả dụng của lansoprazol, esomeprazol và pantoprazol cao nhất. Rabeprazol chuyển hóa thành dạng có hoạt tính nhanh nhất và pantoprazol là thuốc có hoạt tính kém nhất6,8. Omeprazol có tương tác với những thuốc cùng chuyển hóa qua hệ thống men gan CYP 2C19, 3A4, 1A2 (diazepam, clopidorel, phenytoin, theophylin, warfarin…). Những PPI khác tương đối ít tương tác hơn vì chuyển hóa ở mức độ khác nhau (ít tương tác nhất là pantoprazol, rabeprazol).

Do số lượng thuốc PPI gắn với enzyme có liên quan trực tiếp đến việc ức chế sự bài tiết acid nên về lí thuyết thông số này rất quan trọng nhưng lại khó xác định trên thực tế. Các thuốc ức chế bơm proton nếu không bị phá hủy bởi acid dạ dày sẽ được hấp thu rất nhanh và gần như hoàn toàn tại ruột.

Người ta nhận thấy rằng nồng độ huyết thanh của thuốc ít liên quan với hoạt động ức chế bài tiết acid do sinh khả dụng của thuốc thấp vì phải chuyển hóa lần đầu qua gan. Tuy nhiên tác dụng của thuốc có liên quan đến tổng liều và diện tích dưới đường cong (AUC: Area Under the Curve) trong khi nồng độ đỉnh và hình dạng của đường cong không có ý nghĩa nhiều.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng diện tích dưới đường cong là một thông số rất đáng tin cậy trong việc đánh giá hiệu quả của thuốc. Tuy vậy, mối liên quan tuyến tính của AUC với tác dụng ức chế bài tiết acid chỉ xảy ra trong 1 phạm vi nhất định, nghĩa là khi diện tích dưới đường cong đạt đến giá trị ức chế bài tiết acid tối đa thì việc tăng liều PPI cũng không có tác dụng.

Đối với omeprazole, giá trị để AUC ức chế bài tiết acid tối đa là vào khoảng 20 – 30 µg/ml. Nếu AUC vượt ngưỡng này thì cũng không làm tăng thêm giá trị ức chế bài tiết acid. Nhìn vào các thông số dược dộng học, có thể thấy AUC của esomeprazole liều 40mg là vượt trội so với các PPI khác trên lâm sàng.

Trong thực tế việc xác định AUC không phải là dễ, vì vậy pH dạ dày được sử dụng như một thông số phản ánh hoạt động của thuốc. Việc kiểm soát pH dạ dày có vai trò rất lớn trong hiệu quả điều trị. Theo đó, duy trì pH trên 6,5 là thước đo quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả của thuốc.

Nghiên cứu của Kirchheiner đã chứng tỏ esomeprazole và rabeprazole có khả năng kiểm soát acid dịch vị ở người bình thường và người bị trào ngược rất tốt, trong đó esomeprazole có hiệu quả tốt nhất.

FDA đã ban hành liều sử dụng PPI ở trẻ em theo độ tuổi như sau (dựa vào chế phẩm đang lưu hành tại Mỹ)

PPI cho trẻ em theo độ tuổi
PPI cho trẻ em theo độ tuổi
Lưu ý khi sử dụng thuốc ức chế bơm proton (PPI)
PPI nên uống 1 lần vào trước bữa ăn sáng. Nếu dùng 2 lần/ngày nên uống vào trước bữa ăn sáng và chiều. Nên uống trước bữa ăn 15-30 phút.

PPI được khuyến cáo dùng hàng ngày để ngăn loét dạ dày do NSAID. Omeprazole được khuyến cáo 20 mg 1 lần/ngày trong 4 tuần, có thể thay thế bằng Pantoprazol. Lansoprazol không được chỉ định để dự phòng loét ở bệnh nhân đang dùng NSAID nhưng có thể được dùng để điều trị vết loét.

Việc sử dụng đồng thời thuốc ức chế bơm proton với các thuốc kháng tiết acid khác như thuốc đối kháng thụ thể histamin H2 có thể làm giảm tác dụng.

Các thuốc ức chế bơm proton có tỷ lệ liên kết với protein huyết tương lớn và được chuyển hóa nhanh chóng tại gan thông qua CYP2C19 và CYP3A4, do đó việc giảm liều là cần thiết đối với bệnh nhân suy gan nặng. Mặt khác, thuốc được thải trừ ít qua thận nên tương đối an toàn đối với các bệnh nhân suy thận.

Thuốc kháng histamin H2
Sơ lược về nhóm thuốc kháng histamin H2
Các thuốc thuộc nhóm kháng histamin H2 bao gồm: Cimetidine, ranitidine, famotidine, nizatidine và roxatidine.

Vào năm 1964, người ta đã biết rằng histamin có khả năng kích thích tiết acid dạ dày nhưng thuốc kháng histamin truyền thống không ảnh hưởng đến việc sản xuất acid. Từ những thực tế này, các nhà khoa học Smith, Kline và French (SK&F) đã công nhận sự tồn tại của hai loại thụ thể histamin khác nhau. Theo đó, họ chỉ định loại tác động của thuốc kháng histamin truyền thống là H1 và loại tác động của histamin để kích thích tiết axit dạ dày là H2.

Các nhà khoa học SK&F đã sử dụng một quy trình thiết kế cổ điển bắt đầu từ cấu trúc của histamin để tổng hợp hàng trăm hợp chất biến đổi trong nỗ lực phát triển mô hình thụ thể H2 khi đó chưa được biết đến. Cuối cùng, họ đã phát hiện ra cimetidine và đây cũng là chất đối kháng thụ thể histamin H2 nguyên mẫu mà từ đó các loại thuốc sau này đã được phát triển.

Liều dùng cơ bản các thuốc kháng Histamin H2
Liều dùng cơ bản các thuốc kháng Histamin H2
Cơ chế hoạt động
Các thuốc kháng histamin H2 hoạt động bằng cách ức chế cạnh tranh có hồi phục các thụ thể H2, làm ngăn chặn sự sản xuất acid của dạ dày đến 70%. Hơn nữa, các thuốc này có hiệu quả ức chế đặc biệt đối với sự tiết acid dịch vị vào ban đêm.

Tác dụng không mong muốn
Các thuốc kháng histamin H2 có khả năng dung nạp tốt và tương đối an toàn. Các tác dụng phụ chính chủ yếu liên quan đến cimetidine, bao gồm: Kháng androgen, tăng tiết prolactin. Ngoài ra, các triệu chứng khác cũng có thể gặp như: Nhức đầu, chóng mặt, đại tiện khó chịu, khô miệng, chậm nhịp tim, loạn nhịp tim và ngừng tim.

Lưu ý khi sử dụng
Các thuốc kháng histamin H2 có khả năng ức chế cytochrome P450, do đó ảnh hưởng đến sự chuyển hóa của các thuốc như: Theophylline, metronidazole, phenytoin, imipramine…

Ngoài ra, cần thận trọng khi sử dụng các thuốc kháng histamin H2 ở người cao tuổi.

So sánh hiệu quả của các kháng histamin H2
Cimetidin:

Cimetidin là thuốc kháng histamin H2 đầu tiên nên rất được ưa dùng vì tính hữu dụng và có khả năng hấp thu rất nhanh. Chỉ khoảng 20-30 phút dùng thuốc là đã có dấu hiệu tác dụng và chỉ sau 2 giờ uống thuốc là thuốc đã được hấp thu vào cơ thể gần như hoàn toàn.

Tuy nhiên, nhược điểm của Cimetidin so với các thế hệ sau là cimetidin hấp thu nhanh nhưng thải trừ cũng rất nhanh chóng. Vì thế, khi dùng Cimetidin phải dùng cách ra, rải đều thời gian trong ngày.

Ngoài ra, cimetidin chuyển hóa tại gan vì thế nên chúng có nhiều tương tác thuốc và tác dụng phụ hơn các thế hệ sau.

Ranitidin: Tác dụng mạnh hơn cimetidin 4- 10 lần, nhưng lại ít gây tác dụng không mong muốn và ít tương tác thuốc hơn cimetidin.

Famotidin: Tác dụng mạnh hơn cimetidin 30 lần.

Nizatidin: Tác dụng và liều lượng tương tự ranitidin, nhưng ít tác dụng không mong muốn hơn các thuốc kháng histamin H2 khác nên ưa dùng hơn.

Thuốc kháng cholinergic
Sơ lược về nhóm thuốc kháng cholinergic (anticholinergic)
Vào đầu những năm 1950, các loại thuốc kháng cholinergic bậc bốn tổng hợp được giới thiệu để điều trị loét dạ dày tá tràng và nhiều nhà nghiên cứu cho rằng vấn đề đã được giải quyết hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn. Mặc dù nhiều báo cáo không xác nhận sự chỉ định ban đầu này, nhưng những hợp chất này đã được kê đơn rộng rãi để điều trị cho đến khi thuốc kháng histamin H2 ra đời.

Hiện nay, việc sử dụng các loại thuốc kháng cholinergic trong điều trị loét dạ dày – tá tràng không còn phổ biến. Tuy nhiên, các thuốc kháng cholinergic có thể được cân nhắc cho chỉ định này bao gồm các thuốc đối kháng cholinergic chọn lọc trên thụ thể muscarinic M3, gồm: Atropine, Pirenzepine và Telenzepine.

Cơ chế hoạt động
Thuốc kháng cholinergic ngăn chặn hoạt động của acetylcholin đối với các tác nhân gây tác dụng tự trị bên trong các dây thần kinh cholinergic sau khi tạo ra. Tác dụng của chúng đối với dạ dày thông qua cơ chế ức chế thụ thể muscarinic M3, làm giảm sự bài tiết acid dịch vị đồng thời giảm co thắt ruột.

Prostaglandin analogue (Chất tương tự prostaglandin)
Sơ lược về nhóm thuốc tương tự prostaglandin
Misoprostol là một chất tương tự như prostaglandin sinh lý ở người, được phát triển lần đầu tiên vào năm 1973 và sau đó được đưa vào trong Danh sách các loại thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Hiện nay, misoprostol có sẵn như một loại thuốc generic.

Misoprostol được sử dụng để phòng ngừa loét dạ dày do NSAID gây ra, bao gồm cả người cao tuổi và những người có biến chứng loét. Tuy nhiên, omeprazole đã được chứng minh là ít nhất là hiệu quả như misoprostol nhưng được dung nạp tốt hơn đáng kể. Do đó, misoprostol không được coi là một liệu pháp điều trị đầu tay đối với chỉ định này.

Cơ chế hoạt động nhóm thuốc tương tự prostaglandin
Misoprostol có tác dụng ức chế bài tiết acid dịch vị, bảo vệ niêm mạc dạ dày – tá tràng, đồng thời làm tăng tốc độ hồi phục của vết loét dạ dày – tá tràng. Theo đó, thuốc làm giảm bài tiết acid thông qua tác động trực tiếp tại các tế bào thành của dạ dày, ức chế tiết lượng acid cơ bản cũng như khi bị kích thích bởi thức ăn và các tác nhân khác như histamin, NSAID, pentagastrin, tetragastrin, betazol, rượu hoặc cafein.

Ngoài ra, misoprostol cũng có thể làm tăng tiết bicarbonat và dịch nhầy từ các tế bào không phải tế bào thành ở dạ dày. Đồng thời làm tăng cường lưu lượng máu niêm mạc (có thể do tác dụng giãn mạch trực tiếp), bảo vệ sự tăng sinh của tế bào dưới niêm mạc, làm bền vững hệ thống màng nhầy và phòng ngừa sự phá hủy hàng rào chất nhầy.

Tác dụng không mong muốn nhóm thuốc tương tự prostaglandin
Các tác dụng phụ liên quan đến misoprostol bao gồm: Tiêu chảy, chuột rút bụng, đợt cấp của bệnh viêm ruột, xuất huyết tử cung và sẩy thai.

Dạng bào chế của Misoprostol
Dạng bào chế của Misoprostol
Lưu ý khi sử dụng
Misoprostol không được khuyến cáo cho phụ nữ đang trong độ tuổi sinh đẻ, trừ khi bệnh nhân cần phải sử dụng NSAID và có nguy cơ cao bị loét dạ dày do nhóm thuốc này gây ra.

Tương tự, không sử dụng misoprostol để điều trị loét dạ dày – tá tràng cho người có dự định mang thai vì thuốc có thể làm sảy thai.

Cần thận trọng khi sử dụng misoprostol trong một số trường hợp như bệnh mạch máu não, bệnh tim mạch mà sự hạ huyết áp có thể làm khởi phát nhanh các biến chứng nặng.

Thận trọng khi sử dụng misoprostol cho người bệnh viêm ruột, tiêu chảy nặng vì thuốc có thể gây nguy hiểm, đồng thời phải theo dõi cẩn thận các bệnh nhân này nếu dùng misoprostol.

Thuốc bảo vệ ổ loét
Sơ lược về nhóm thuốc bảo vệ ổ loét
Các thuốc bảo vệ ổ loét niêm mạc dạ dày – tá tràng hiện nay còn được sử dụng bao gồm sucralfate và keo bismuth subcitrate.

Bismuth subcitrate hay Colloidal Bismuth subcitrate (CBS) là một dạng muối bismuth phức tạp của acid citric có thể hòa tan trong nước nhưng kết tủa ở pH nhỏ hơn 5. Trong dịch vị, pH tối ưu để kết tủa là 3,5.

Một số dạng bào chế của Bismuth subcitrat
Một số dạng bào chế của Bismuth subcitrat
Bismuth subcitrate còn có tác dụng diệt khuẩn chống lại Helicobacter pylori (có liên quan đến viêm dạ dày và loét dạ dày tá tràng). Nó cũng giúp ngăn cản sự bám dính của H. pylori vào các tế bào biểu mô và có thể ức chế các enzym do H. tiết ra.

Bismuth subcitrat cũng được sử dụng phối hợp với các thuốc thuộc nhóm ức chế bơm proton hoặc các thuốc ức chế thụ thể H2 của histamin và kháng sinh phối hợp để diệt Helicobacter pylori.

Khi dùng điều trị đơn độc, các hợp chất bismuth subcitrat chỉ diệt được H. pylori ở khoảng 20% người bệnh, nhưng khi phối hợp với kháng sinh hoặc các thuốc ức chế bơm proton giảm tiết acid, có thể đạt hiệu quả diệt vi khuẩn tới 70 – 90% người bệnh

Sucralfate là một muối nhôm của sulfat disacarid, được phê duyệt bởi FDA để sử dụng trong y tế ở Hoa Kỳ vào năm 1981 và có sẵn dưới dạng thuốc generic. Mặc dù không được FDA chấp thuận cho bệnh viêm loét dạ dày, nhưng sucralfate vẫn được sử dụng rộng rãi vì đã có những bằng chứng về hiệu quả. Mặt khác, việc sử dụng sucralfate trong bệnh loét dạ dày gần đây đã giảm, tuy nhiên đây vẫn là tác nhân được ưa thích để ngăn ngừa loét do căng thẳng.

Cơ chế hoạt động
Mặc dù có thành phần khác nhau, nhưng cả sucralfate và bismuth subcitrate đều có chung cơ chế là tạo thành một lớp quánh dính trên ổ loét thông qua sự gắn vào protein tổ chức tạo màng.

Ở ổ loét tá tràng và cả dạ dày, nhiều sản phẩm của protein được giải phóng liên tục với hàm lượng lớn do quá trình hoại tử mô. Thông qua hình thành phức chelat, những sản phẩm giáng vị của protein này, cùng với phần kết tủa thu được từ bismuth subcitrat, phối hợp tạo thành một lớp bảo vệ và lớp bảo vệ này thì không bị ảnh hưởng của dịch vị hay các enzym trong ruột. Rào chắn này cũng có tác dụng ngăn chặn pepsin xâm nhập đến vị trí loét.

Ngoài ra, các thuốc này cũng làm tăng cường sự tổng hợp các yếu tố bảo vệ niêm mạc dạ dày như chất nhầy, bicarbonate, prostaglandin E2.

Tác dụng không mong muốn
Các tác dụng phụ của thuốc bảo vệ ổ loét thường không quá nghiêm trọng, trong đó, táo bón là triệu chứng có thể gặp khi sử dụng sucralfate. Ngoài ra, một số nghiên cứu cho rằng các hợp chất bismuth có thể gây ra các bệnh về não.

Lưu ý khi sử dụng
Cần thận trọng khi sử dụng sucralfate ở bệnh nhân suy thận do nguy cơ tăng tích lũy nhôm, nhất là khi dùng dài ngày. Đặc biệt, trong trường hợp bệnh nhân suy thận nặng, cần tránh dùng sucralfate.

Nguy cơ ngộ độc bismuth subcitrate có thể tăng nếu dùng liều cao quá mức so với khuyến cáo hoặc dùng thuốc trong một thời gian dài.

Thuốc diệt HP
Sơ lược về nhóm thuốc diệt HP (anti-H.pylori)
Các thuốc tiêu diệt vi khuẩn HP bao gồm các kháng sinh như: Amoxicillin, clarithromycin, metronidazole, tinidazole và tetracycline… được thêm vào phác đồ điều trị khi bệnh nhân được chẩn đoán viêm loét dạ dày – tá tràng do nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori.

Các phác đồ điều trị HP
AGA khuyên cáo nếu liệu pháp đầu tay với bốn thuốc có bismuth không hiệu quả, bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân nên cùng quyết định lựa chọn các lựa chọn hàng đầu giữa (a) phác đồ ba thuốc dựa trên levofloxacin hoặc rifabutin với liều kép liều cao (liều cao, 2 lần/ngày) thuốc ức chế bơm proton (PPI) và amoxicillin, và (b) một liệu pháp điều trị bốn thuốc thay thế có chứa bismuth (EACM).

Khi sử dụng phác đồ có metronidazole, hãy cân nhắc dùng đủ liều metronidazole (1,5–2 g mỗi ngày chia làm nhiều lần) với liệu pháp bismuth đồng thời để cải thiện thành công của liệu pháp tiệt trừ bất kể có tình trạng kháng metronidazole ở trong phòng thí nghiệm.

Vì ức chế acid không đầy đủ có liên quan đến thất bại tiệt trừ H.pylori, nên cân nhắc sử dụng các PPI như sau: PPI liều cao và mạnh hơn (liều cao, 2 lần/ngày), PPI không được chuyển hóa bởi CYP2C19 (Rabeprazole), hoặc thuốc kháng tiết acid cạnh tranh kali nếu có (Revaprazan, Vonoprazan, Tegoprazan – Việt Nam chưa có) ở bệnh nhân nhiễm H pylori kháng trị.

Phác đồ điều trị viêm loét dạ dày có hp
Phác đồ điều trị viêm loét dạ dày có hp
Thành công tiệt trừ đạt được cao hơn với thời gian điều trị dài hơn so với thời gian điều trị ngắn hơn (ví dụ: 14 ngày so với 7 ngày). Do đó, nếu thích hợp, hãy chọn thời gian điều trị dài hơn để điều trị nhiễm khuẩn H.pylori kháng trị.

Một số phác đồ sau được khuyến cáo để điều trị loét dạ dày – tá tràng do nhiễm HP:

Phác đồ 4 thuốc có bismuth (PBMT) [PPI + Bismuth + Metronidazole + Tetracycline]

PPI: Omeprazole 20 mg BID hoặc một PPI thay thế ở liều tương đương.

Bismuth: Bismuth subcitrate 120 – 300mg QID hoặc Bismuth subsalicylate 300mg QID.

Metronidazole 250 mg QID (chỉ có ở Hoa Kỳ) hoặc 500mg TID-QID.

Tetracycline 500 mg QID.

Phác đồ 4 thuốc không có bismuth (PAMC) [PPI + Amoxicillin + Metronidazole + Clarithromycin]

PPI: Omeprazole 20 mg BID hoặc một PPI thay thế ở liều tương đương.

Amoxicillin 1000mg BID.

Clarithromycin 500mg BID.

Metronidazole 500mg BID.

Phác đồ 3 thuốc có clarithromycin có thể cân nhắc sử dụng ở các khu vực ghi nhận có tỷ lệ kháng clarithromycin < 15%

PAC:

PPI: Omeprazole 20 – 40 mg BID hoặc một PPI thay thế ở liều tương đương.

Amoxicillin 1000mg BID.

Clarithromycin 500mg BID.

PMC:

PPI: Omeprazole 20 – 40mg BID hoặc một PPI thay thế ở liều tương đương.

Clarithromycin 500mg BID.

Metronidazole 500mg TID.

PAM (PPI + Amoxicillin + Metronidazole) :

PPI: Omeprazole 20mg BID hoặc một PPI thay thế ở liều tương đương.

Amoxicillin 1000mg BID.

Metronidazole 500mg BID.

Phác đồ nối tiếp :

PPI: Omeprazole 20mg BID hoặc một PPI thay thế ở liều tương đương trong 5 – 7 ngày.

Amoxicillin 1000mg BID trong 5 – 7 ngày.

Nối tiếp bằng phác đồ PMC trong 5 – 7 ngày.

Phác đồ hỗn hợp:

PPI: Omeprazole 20mg BID hoặc một PPI thay thế ở liều tương đương trong 7 ngày.

Amoxicillin 1000mg BID trong 7 ngày.

Nối tiếp bằng PAMC trong 7 ngày.

Phác đồ 3 thuốc có levofloxacin trong 10 – 14 ngày

PPI: Omeprazole 20mg BID hoặc một PPI thay thế ở liều tương đương.

Amoxicillin 1000mg BID.

Levofloxacin 500mg QD.

Phác đồ nối tiếp có levofloxacin

PPI: Omeprazole 20 – 40mg BID hoặc một PPI thay thế ở liều tương đương trong 5 – 7 ngày.

Amoxicillin 1000mg BID trong 5 – 7 ngày.

Nối tiếp trong 5 – 7 ngày bằng: PPI + Amoxicillin 1000mg BID + Levofloxacin 500mg QD + Metronidazole 500mg BID.

Phác đồ LOAD (Levofloxacin + Omeprazole + Alinia [nitazoxanide] + Doxycycline) trong 7 – 10 ngày

Levofloxacin 250mg QD.

PPI: Omeprazole 40mg QD hoặc một PPI thay thế ở liều tương đương.

Nitazoxanide 500mg BID.

Doxycycline 100mg QD.

Hiệu quả của các phác đồ điều trị HP ở Việt Nam
Phác đồ điều trị Tỷ lệ hiệu quả (%)
Phác đồ bộ 3 68.3
Phác đồ 4 thuốc có bismuth 75 – 95.7
Phác đồ 3 thuốc có levofloxacin 83.2
Phác đồ nối tiếp 86.1
Phác đồ đồng thời 88.7
Lưu ý khi sử dụng
Tránh tái sử dụng phác đồ điều trị có chứa clarithromycin sau khi đã thất bại với clarithromycin.

Xem xét khả năng dị ứng ở bệnh nhân có tiền sử dị ứng penicillin vì nhiều phác đồ có chứa amoxicillin.

Đối với hầu hết bệnh nhân, khuyến cáo điều trị trong vòng 14 ngày với phác đồ 4 thuốc có bismuth hoặc phác đồ 3 thuốc có levofloxacin.

Phác đồ 3 thuốc có rifabutin (còn được biết đến với tên PAR [PPI + Amoxicillin + Rifabutin] có thể xem xét trong 10 ngày.

Các kháng sinh amoxicillin, clarithromycin, metronidazole, rifabutin, levofloxacin, tinidazole được uống vào bữa ăn nhằm tránh các tác dụng không mong muốn trên đường tiêu hóa do thuốc gây ra.

Sinh khả dụng của tetracyclin bị giảm bởi thức ăn, nên kháng sinh này được uống cách xa bữa ăn.

Address

Thôn Tiền, Xã Dục Tú, đông Anh
Hanoi
12329

Opening Hours

Monday 06:00 - 21:00
Tuesday 06:00 - 21:00
Wednesday 06:00 - 21:00
Thursday 06:00 - 21:00
Friday 06:00 - 21:00
Saturday 06:00 - 21:00
Sunday 06:00 - 21:00

Telephone

+84364449302

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Quầy Thuốc Hoa Tâm 2 posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Practice

Send a message to Quầy Thuốc Hoa Tâm 2:

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram