27/12/2024
🌟🌟🌟🌟🌟
Chim Cánh Cụt là loài động vật được coi là biểu tượng của Châu Nam Cực. Chim cánh cụt có sáu chi và 17 đến 20 loài phục thuộc vào việc định nghĩa. Loài chim cánh cụt Hoàng Đế và chim cánh cụt Adelie là hai loài chỉ sinh sản ở Biển Phương Nam tạo nên loài đặc hữu của Châu Nam Cực.
🌐 Chim cánh cụt chủ yếu sống ở Nam Bán Cầu, tuy nhiên chim cánh cụt không cần nhiệt độ không khí lạnh mà nó chỉ cần sống ở vùng nước lạnh nơi có chứa mật độ oxy nhiều và vùng nước lạnh cũng cung cấp chuỗi thức ăn rất lớn hơn vùng nước ấm.
🌐 Chỉ có loài chim cánh cụt ở Đảo Galapagos là loài chim cánh cụt hiếm hoi trên thế giới mà sống ở Bắc Bán Cầu. Ngoại trừ việc thay lông và sinh sản, chim cánh cụt dành thời gian chủ yếu của vòng đời sống dưới nước. Thân thể hình thoi và thủy đông lực học cho phép chúng bơi trong nước một cách dễ dàng và hiệu quả nhất. Xương của chúng không giống các loài chim khác rỗng và linh hoạt thì xương của chim cánh cụt rất cứng và chắc, nó làm tăng sự chắc chắn của cơ thể khi bơi và lặn. Cánh được tiến hóa như những tay chèo cho phép chúng lái cơ thể dưới nước theo ý của mình. Nó sử dụng chân và đuôi như những bánh lái. Lông ngắn mọc đều nhau như một lớp áo chắc chắn bảo vệ cơ thể và khi rỉa lông dầu chứa ở phao câu ở trên đuôi sẽ giúp lớp lông không thấm nước và cứng. Dầu có một lớp mỏng ở dưới lông và một lớp dày ở trong mỡ dưới lớp da giữ ấm cho chim cánh cụt trước cái lạnh của biển và khí hậu khắc nghiệt của Châu Nam Cực.
Những bộ vuốt sắc và chắc chắn giúp chim có thể đi trên tuyết, vượt chướng ngại vật và cách di chuyển thu hút rất nhiều ánh mắt thích thú của du khách khi đến Châu Nam Cực.
🌐Chim cánh cụt được biết đến là loài vật di chuyển trên mặt đất khá vụng về, nhưng dưới nước nó lại trở thành một tay bơi cực kỳ chuyên nghiệp để tiết kiệm năng lượng khi kiếm ăn và tránh các loài động vật săn mồi. Chim cánh cụt thường bơi nhanh bằng cách nhảy lên mặt nước rồi lại hạ xuống rồi lại nhảy lên, cách di chuyển này ít bị cản của nước nên tốc độ di chuyển nhanh hơn khi bơi dưới nước. Ngoai ra trên tuyết trắng, chim cánh cụt cũng hay dùng bụng của mình trườn trên tuyết để tiết kiệm năng lượng và di chuyển nhanh hơn. Chim cánh cụt là những bố mẹ chu đáo, bố và mẹ chia sẻ trách nhiệm trong việc chăm sóc con. Những loài chim cánh cụt xây tổ khi đẻ trứng thường sử dụng những viên sỏi nhỏ, lông và những vật nhỏ để tạo nên chiếc tổ của mình. Đôi khi những viên sỏi bị cướp bởi những chú chim cánh cụt hàng xóm
trong suốt mùa sinh sản. Trong thời gian ấp trứng, ở những loài chim cánh cụt nhỏ, chim cái và chim đực thay nhau trông con và kiếm thức ăn. Một số loài chim cánh cụt khi con con được vài tuần tuổi sẽ được những con chim lân cận bảo vệ để cho bố mẹ ra biển bắt cá từ những động vật săn mồi như chim Cướp Biển. Khi bố mẹ trở về với thức ăn, nó sẽ thông báo việc trở lại với con chim con bằng những âm thanh đặc trưng để con con dễ dàng nhận ra bố mẹ. Chim con lấy thức ăn từ việc bố mẹ nôn ra từ miệng.
Sau khi chim con lớn dần, lông mọc đầy đủ, nó sẽ không được bố mẹ chăm sóc nữa mà phải tự đi kiếm ăn. Hai tuần lễ thay lông là hai tuần khó khăn với chim cánh cụt vì lúc đó lông cũ sẽ rụng để thay lông mới, lúc đó nó sẽ phải chịu cái lạnh thấu da thấu thịt của Châu Nam Cực.
🌐Một số loài chim cánh cụt sống theo bầy thì thường để con con ở giữa bầy cho đỡ lạnh, một số loài thì chọn những khu vách đá để che cho đỡ lạnh. Những hóa thạch của các nhà khoa học tìm được chỉ ra rằng có khoảng 40 loài chim cánh cụt khác nhau đã từng sống trên trái đất.Có nhiều giả thiết về nguồn gốc của loài chim cánh cụt. Có giả thiết cho rằng một số loài chim cánh cụt hiện đại của Nam Cực bây giờ như Chim Cánh Cụt Hoàng Đế, Adelia, Chinstrap, Gentoo có liên quan đến loài chim cánh cụt mà tồn tại ở thời điểm 20 – 15 triệu năm trước. Hầu hết các loài chim cánh cụt xây tổ ở Nam Cực trong suốt mùa hè và khi mùa đông đến băng tuyết phủ hết các tổ chim, chúng sẽ bắt bầu một khởi đầu mới bằng việc bơi đến những vùng nước mở ở gần những tảng băng để kiếm ăn.
🌐Tuy nhiên không phải tất cả các loài chim cánh cụt đều rời bỏ lục địa Nam Cực vào mùa đông. Khi mùa đông tới, Chim Cánh Cụt Hoàng Đế bắt đầu một chu trình sinh sản đáng kinh ngạc và chúng không rời lục địa Nam Cực nơi chúng sống, mà chịu lạnh và bão tuyết bằng cách tụ họp quanh nhau, con con ở giữa, con trưởng thành ở ngoài.
🌐 Chim cánh cụt Gentoo
Chim cánh cụt Gentoo có khoảng 520.000 cá thể phân bố nhiều ở vùng biển Bán Đảo Châu Nam Cực tuy nhiên cũng được thấy ở vùng Tasmania và New Zealand. Thời điểm hiện tại số lượng đang giảm sút. Loài chim này có kích thước nhỏ với độ cao tầm 80cm và nặng nhất tầm 8.5kg. Phân biệt bên ngoài với chiếc mỏ màu đỏ và có một diềm trắng từ mắt hướng lên đầu. Những cá thể sống ở phương nam có kích thước lớn hơn, lông dài hơn so với những cá thể sống ở vĩ độ bắc.
🌐 Chim Cánh Cụt Hoàng Đế
Trên trái đất có khoang 270 – 350.000 cá thể chim cánh cụt Hoàng Đế được biết đến ở bờ biển Châu Nam Cực vào mùa sinh sản. Chim cánh cụt Hoàng Đế là loài chinh cánh cụt lớn nhất với độ cao trung bình là 1.15 mét và nặng 45 kg. Lịch sử nghiên cứu khoa học có chỉ ra rằng có những loài chim cánh cụt to hơn chim cánh cụt Hoàng Đế, nặng tới 100kg nhưng những loại này đã bị tuyệt chủng trước đây cả 10 ngàn năm rồi vì vậy hiện tại chim cánh cụt Hoàng Đế là loài chim cánh cụt to nhất trong các loài chim cánh cụt còn tồn tại đến ngày nay. Nó có lưng màu nâu xanh và đầu màu đen với một rạch cổ màu vàng và da cam. Từ dưới cằm xuống đến bụng và chân là màu trắng.
🌐 Chim cánh cụt Adelie
Tổng số có khoảng 4 – 5,2 triệu cá thể tồn tại. Loài này chủ yếu sống ở vùng biển Châu Nam Cực và một số đảo ở biển phía nam. Kích thước của loài này là nhỏ nhất so với các loài chim cánh cụt ở Châu Nam Cực với độ cao 70cm và nặng 5kg trung bình và nặng nhất cũng chỉ 8kg. Cái đầu của nó màu đen với phần than phía trước màu trắng. Tất cả các loài chim cánh cụt đều có kiểu ngụy trang lưng đen và bụng trắng để khi bơi dưới nước các loài săn mồi sẽ khó phát hiện ra. Chim cánh cụt Adelie thường ăn chủ yếu là động vật giáp xác và mực và cá nhỏ. Chim cánh cụt Adelie là loài chim cánh cụt xây tổ ở trong lục địa nam cực về hướng nam xa nhất so với các loài chim cánh cụt khác kể cả chim cánh cụt Hoàng Đế. Nó là loài chim cánh cụt đầu tiên trong các loài chim trở lại Châu Nam Cực sau khi băng tuyết mùa đông tan dần.
🌐 Chim cánh cụt Quai Mũ (Chinstrap)
Số lượng khoàng 8 triệu con với nửa số tập trung vào mùa sinh sản ở Đảo South Sandwich. Chúng sống chủ yếu ở Châu Nam Cực và một số đảo ở biển phía nam. Kích thước của chúng tầm 77cm và nặng 5kg. Chúng dễ dàng phân biệt bằng có một đường kẻ đen từ cằm lên mang tai giữa bộ lông màu trắng ở bụng và mặt. Phía sau và trên đỉnh đầu thì màu đen. Chim cánh cụt Quai Mũ ăn động vật giáp xác và cá khi tiến tới độ xâu cực đại là 102 mét. Mùa sinh sản của nó cũng bắt đầu từ tháng 10 hoặc tháng 11 hàng năm, với một chiếc móng khỏe và đuôi sử dụng thăng bằng, chúng có thể làm tổ trên những vách đá mà cao tới 100 mét, nơi mà thoát được nước và tuyết giữ cho tổ nó khô ráo.
🌐 Chim cánh cụt Vua (King Penguin)
Chim cánh cụt vua được phát hiện bởi những nhà thám hiểm Châu Âu vàođầu thế kỷ 18.
Loài chim này có đến tầm 4 triệu cá thể và thường tập trung đông đủ vào mùa sinh sản ở những hòn đảo cận cực của Châu Nam Cực như South Georgia, the Falkland, Kerguelen Islands, Crozet Island, Prince Edward Islands, Heard Island vàMcDonald Islands, and Macquarie Island. Chim cánh cụt Vua là loài chim cánh cụt lớn thứ 2 sau chim cánh cụt Hoàng Đế. Nó cao tới 95cm và nặng trung bình 13kg. Nó có màu nâu bạc ở phía sau. Đầu màu đen và có cổ màu da cam kéo lên cằm, phần dưới mỏ cũng màu da cam dài hơn chim cánh cụt Hoàng Đế và trên đỉnh đàu có một dải màu da cam bao phủ. Chim cánh cụt Vua ăn chủ yếu là cá và mực. Chúng có thể lặn ở độ sâu nhất đến 240 mét, còn trung bình chúng lặn ở độ sâu 25 mét trong thời gian tầm 10 phút. Không giống như các loài chim cánh cụt khác, chim cánh cụt Vua có chu kỳ sinh sản kéo dài hơn 1 năm tầm 13 – 16 tháng. Thông thường chúng thường tái sinh sản hai lần trong thời gian 3 năm, còn có một số quần thể chim sinh sản một lần trong hai năm.
🌐 Chim cánh cụt Macaroni
Có tới 11 triệu cặp đôi chim cán cụt Macaroni tập trung sinh sản ở những hòn đảo thuộc phía nam biển Australia, Nam Phi, Nam Mỹ và những đảo cận Nam Cực như South Shetland. Một con trưởng thành có kích thước 71cm và nặng 6.5kg. Nó rất dễ nhận biết bằng việc có một dải lông màu da cam ở ngay trên hai mắt chìa ra hai bên và cái mỏ màu đỏ hồng. Bộ mặt màu đen, lưng đen và bụng trắng. Chim cánh cụt Macaroni chủ yếu là ăn loài Nhuyễn thể, cá và mực khi nó lặn được sâu nhất tới 100 mét.
🌐 Chim cánh cụt Hoàng Gia
Chim cánh cụt Hoàng Gia là loài chim cánh cụt có mào, có một chùm lông màu vàng chạy từ sống mũi lên trên đầu, được đặt tên bởi nhà động vật học người Đức Hermann Schlegel.
Chim cánh cụt Hoàng Gia là loài chim cánh cụt cỡ trung bình, nó có nhiều phần giống chim cánh cụt Macaroni, tuy nhiên nó to hơn khoảng 20% với chim cánh cụt Macaroni.
Trong khi mặt nó màu nâu trắng, còn chim cánh cụt Macaroni thì mặt màu đen. Nó có mào mở trên đầu nhưng phải mất nhiều năm để chiếc mào được phát triển hoàn thiện vì vậy con chim con có mào khác với chim trưởng thành. Khi bắt đầu mùa sinh sản, chim cánh cụt Hoàng Gia nặng tầm 4.2 – 6.3kg nhưng đến cuối mùa sinh sản, trọng lượng của nó giảm chỉ còn 3 – 5kg.
🌐 Chim cánh cụt Rockhopper
Chim cánh cụt Rockhopper có hai loài là Chim cánh cụt Rockhopper phương bắc và phương nam. Cả hai loài đều là chim cánh cụt có mào nhỏ, nặng tầm 2 – 3.8kg với chim cánh cụt Rockhopper phương nam và gần 4kg với chim cánh cụt Rockhopper phương bắc. Chim cánh cụt Rockhopper phương nam phân bố ở những hòn đảo như Heard Island, the McDonald Islands and Macquarie Island. Còn Chim cánh cụt Rockhopper phương bắc phân bố ở vùng khí hậu ôn hòa ở Phía Nam Biển Đại Tây Dương
🌐 Chim cánh cụt Xanh
Là loài chim cánh cụt nhỏ nhất còn được gọi là chim cánh cụt cổ tích, đứng khoảng 33 cm cao và nặng 1 kg chúng phân bố ở Úc và New Zealand.