18/08/2025
Tương lai của điều trị mụn trứng cá: Có những hướng mới nào?
Mụn trứng cá, một tình trạng mãn tính gây ảnh hưởng khó chịu đến cuộc sống của rất nhiều người. Các phương pháp điều trị truyền thống đã phát huy hiệu quả trong một thời gian dài nhưng, chúng có những hạn chế nhất định:
+ Một hạn chế của các liệu pháp trị mụn trứng cá hiện có gồm vấn đề tác dụng phụ tại chỗ của chúng, khá khác nhau, bao gồm bỏng rát, mẩn đỏ, b**g vảy, ngứa, châm chích, đổi màu da hoặc thậm chí gây viêm da tiếp xúc kích ứng.
+ Isotretinoin đường uống yêu cầu các biện pháp ngừa thai bắt buộc đối với tất cả bệnh nhân nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Tùy thuộc vào sự tuân thủ của từng bệnh nhân, tỷ lệ thành công trong điều kiện lâm sàng hàng ngày có thể thay đổi đáng kể.
+ Một số nhóm bị mụn trứng cá cho thấy chống chỉ định đối với một số loại thuốc vì giới tính, tuổi tác, tuân thủ điều trị, khí hậu và hành vi văn hóa (thuốc kháng androgen, isotretinoin, độ ẩm, khô, phơi nắng, mang thai).
+ Thuốc kháng androgen có thể không được chỉ định ở một số bệnh nhân nữ vì chống chỉ định do vấn đề sức khỏe hoặc vì lý do văn hóa hoặc tôn giáo.
+ Hơn nữa, sự xuất hiện ngày càng tăng của tình trạng kháng thuốc của vi khuẩn liên quan đến kháng sinh đường uống và thuốc bôi, theo sau là sự phát triển của kháng chéo với erythromycin hoặc clindamycin có liên quan đến các bệnh nhiễm trùng khác liên quan đến cộng đồng đặt ra nhu cầu cấp thiết phải thay đổi phác đồ điều trị.
Mặc dù một số hiệu quả đã được chứng minh của các phương pháp điều trị hiện tại tuy nhiên vì những lý do cơ bản ở trên đặt ra một nhu cầu cấp thiết cần khuyến khích nghiên cứu khám phá các liệu pháp nhắm mục tiêu, tôn trọng sự đa dạng của hệ vi sinh vật và gây ra ít tác dụng phụ hơn. Hiện nay, có 6 trục chính trong quá trình phát triển trong điều trị mụn trứng cá: chế phẩm sinh học, Vaccine, thể thực khuẩn (phages), liệu pháp peptide kháng khuẩn, các thuốc mới, và sử dụng công nghệ dựa trên năng lượng.
Chế phẩm sinh học
Những hiểu biết về hệ vi sinh vật trên da đã định hướng những hướng điều trị mụn mới hơn. Mặc dù C.acnes được nhắc đến là một trong các yếu tố gây nên mụn, nhưng người ta đã biết thêm rằng, dường như chỉ 1 số dưới tuýp, ví dụ như IA1 liên quan trực tiếp đến tình trạng mụn trung bình và nặng. Do chúng có nhiều độc lực hơn, kích thích phản ứng viêm mạnh mẽ hơn. Vì vậy hướng điều trị có thể sẽ nhắm đến nhóm có độc lực cao mà không phải tất cả C.acnes. Bởi nhiều chủng C.acnes có vai trò lớn hơn trong việc duy trì pH bình thường của da cũng như tạo sự cân bằng cho hệ vi sinh trên da.
Với C.acnes nói chung, ngta có thể không chỉ dùng kháng sinh để kiểm soát chúng vì chúng ngoài việc gây rối loạn quần thể C.acnes, những hệ sinh vật khác trên da và ruột cũng bị ảnh hưởng dẫn đến những tổn hại lâu dài. Thay vì kháng sinh có thể dùng probiotics tại chỗ hoặc đường ruột để lập lại cân bằng của hệ vi khuẩn giúp kiểm soát tình trạng mụn trứng cá.
Một số bằng chứng:
[1]Staphylococcus epidermidis có khả năng kiểm soát sự sinh sôi của C. acnes thông qua việc giải phóng axit succinic và sản phẩm lên men axit béo, bằng cách này, việc tiêu diệt C. acnes có hệ thống dường như không còn là một chiến lược phù hợp nữa. Việc dùng chế phẩm bổ sung S.epidermidis trong sinh lý bệnh của mụn trứng cá giúp hạn chế sự xâm nhập của C. acnes trên da và tình trạng viêm. Tuy nhiên, S.epidermidis biểu hiện quá mức có thể gây nhiễm trùng. Do đó, để tôn trọng cân bằng nội môi của da, các phương pháp điều trị trong tương lai có thể dựa trên chế phẩm sinh học được tạo ra từ S. epidermidis để cho phép phục hồi hệ vi sinh vật bình thường của da và nhắm mục tiêu điều hòa các chất trung gian AMP của vật chủ, mà không làm tăng quần thể S. epidermidis.
Một số bằng chứng tiềm năng khác(nghiên cứu cụ thể BS để link tham khảo phần cmt dưới bài viết):
[2]Streptococcus salivarius ngăn chặn sự phát triển của C. acnes bằng cách tiết ra một chất ức chế giống như bacteriocin, cũng là một hướng tiếp cận hiệu quả.
[3] Bôi tại chỗ Enterococcus faecalis cho thấy giảm đáng kể tổn thương mụn viêm so với giả dược.
[4] Điều trị bằng Lactobacillus plantarum cũng làm giảm mức độ nghiêm trọng của mụn trứng cá và ban đỏ.
Thực thể khuẩn phage
Sự phát triển của liệu pháp phage (thể thực khuẩn - virus nhân lên trong vi khuẩn và tiêu diệt vi khuẩn) trong mụn trứng cá sẽ phù hợp để nhắm mục tiêu vào chủng C. acnes cụ thể có liên quan đến mụn trứng cá và bảo tồn tính đa dạng của hệ vi sinh vật trên da khỏe mạnh.
Bacteriophages - thực khuẩn thể, thành phần ít được hiểu biết nhất của hệ vi sinh vật ở người, là các loại virus có thể lây nhiễm và tiêu diệt vi khuẩn.
Sử dụng virus kí sinh trên vi khuẩn để tiêu diệt vi khuẩn. Người ta thấy rằng khi tăng tuổi số lượng phage trên da tăng lên và mụn trứng cá cũng giảm. Đồng thời thì người ta cũng nhận ra rằng chủng I(chủng C.acnes được phát hiện có liên quan nhiều nhất đến tình trạng mụn trứng cá trung bình và nặng) dễ dàng bị lây nhiễm phage hơn các tuýp khác[5]. Vì vậy tương lai có thể có các phương pháp điều trị dựa trên phage để tiêu diệt những dưới tuýp có độc lực cao gây mụn và bảo tồn các dưới tuýp C.acnes bình thường khác trên da.
Tiếp cận Vaccine
C. acnes có khả năng tạo ra nhiều yếu tố độc lực được tiết ra hoặc cố định trong thành tế bào và kích thích các tế bào vật chủ lân cận, gây viêm và tổn thương tế bào. Trong số đó có yếu tố CAMP, một yếu tố độc lực bài tiết tạo thành nguồn viêm thiết yếu trong sinh lý bệnh mụn trứng cá. Nói thêm về CAMP: Là một protein được sản xuất bởi một số vi khuẩn, có khả năng tăng cường hoạt động của các enzyme khác, đặc biệt là phospholipase, góp phần vào quá trình viêm, phá vỡ các thành phần của da, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập sâu hơn, và gây ra các triệu chứng của mụn trứng cá, như đỏ, sưng, và mủ. Việc ủ các mẫu mô phỏng mụn ngoài cơ thể với kháng thể nhắm mục tiêu yếu tố CAMP đã cho thấy làm giảm IL-8 và IL-1β, qua đó làm giảm phản ứng viêm. Mặc dù CAMP biểu hiện cao ở phylotype IA1 nhưng cũng có nhiều ý kiến cho rằng CAMP cũng biểu hiện ở tất cả các chủng khác nên dẫn đến lo ngại sẽ gây ảnh hưởng đến tất cả các chủng làm rối loại các chủng bình thường của C.acnes.
Mức độ nghiêm trọng của mụn trứng cá phụ thuộc vào mức độ cơ bản của khả năng miễn dịch tự nhiên ở từng người, có người dễ tạo nên phản ứng viêm quá mức dẫn đến những tình trạng mụn trứng cá nặng hơn [6]. Hơn nữa, các nghiên cứu gần đây báo cáo rằng mụn trứng nặng có liên quan đến sự mất đa dạng của các chủng C. acnes và sự mất đa dạng này có khả năng gây ra phản ứng viêm da [7]. Xem xét những dữ liệu này, vaccine có thể phù hợp và liên quan đến việc nhắm vào các yếu tố độc lực được tiết ra hơn là tập trung vào chiến lược tiêm vaccine nhằm tiêu diệt C. acnes hoặc nhắm vào một kháng nguyên bề mặt. Việc ức chế cụ thể các yếu tố độc lực được tiết ra sẽ hạn chế nguy cơ nhắm mục tiêu không mong muốn vào vi khuẩn không gây bệnh và khắc phục khả năng lựa chọn vi khuẩn kháng thuốc. Đây là một hướng đi tiềm năng trong tương lai, vì thế vẫn cần có thêm nghiên cứu về phương pháp tiếp cận này.
Peptid kháng khuẩn
Một số loại peptid có khả năng làm vỡ màng tế bào vi khuẩn(ví dụ Antimicrobial peptides - AMPs có thể được tạo nên từ thủy phân lòng trắng trứng…). AMPs có thể phá vỡ màng tế bào của P. acnes, làm suy yếu và tiêu diệt vi khuẩn. Một số peptid giảm tín hiệu viêm, giảm tiết bã nhờn bằng cách giảm tín hiệu thần kinh tới tuyến bã(ví dụ botox), hoặc kích thích lành thương sau tổn thương mụn. Những peptid này có hiệu quả kháng khuẩn tốt, ít gây kháng và an toàn khi sử dụng.
Sử dụng thiết bị dựa trên năng lượng: laser, ánh sáng
Sử dụng các loại laser 1450nm, 1540nm với đích là nước trong tuyến bã nhờn làm tổn thương tuyến bã giúp giảm tiết bã nhờn.
Sử dụng biện pháp quang động(PDT): dùng chất cảm quang mà tuyến bã tích tụ mạnh, sau đó dùng ánh sáng với bước sóng 600-800nm tạo ra phản ứng quang hóa với chất cảm quang và tạo ra gốc oxy tự do làm phá hủy tuyến bã nhờn.
Laser 1726 nm mới nhắm mục tiêu cụ thể vào tuyến bã nhờn, vốn được biết là đóng vai trò then chốt trong sinh lý bệnh mụn trứng cá. Bước sóng laser này cho thấy tiềm năng đáng kể như một lựa chọn điều trị an toàn và hiệu quả cho mụn trứng cá từ trung bình đến nặng mà không gây ra rủi ro như liệu pháp toàn thân. Thiết bị AviClear là tia laser 1726 nm điều trị mụn trứng cá thông qua quang nhiệt chọn lọc của tuyến bã nhờn. Thiết bị này được FDA chấp thuận để điều trị mụn trứng cá viêm từ nhẹ đến nặng ở mọi loại da. Bằng chứng ban đầu cho thiết bị này rất hứa hẹn. Goldberg và cộng sự đã nghiên cứu thiết bị AviClear trên 17 bệnh nhân và thực hiện ba lần điều trị, cách nhau tối đa 7 tuần. Tất cả bệnh nhân đều dung nạp được phương pháp điều trị mà không cần gây mê (điểm khó chịu là 4,9 ± 1,5 trên 10). Bệnh nhân có sự giảm mụn trứng cá đáng kể về mặt thống kê với mức giảm 52% số lượng tổn thương viêm trong vòng 1 tháng điều trị và giảm 97% sau 24 tháng kể từ lần điều trị cuối cùng [8]
Laser và các loại ánh sáng nói chung là một lựa chọn điều trị đầy tiềm năng trong tương lai. Bởi chúng dễ được chấp nhận và có thể có ít tác dụng phụ hơn so với các phương pháp điều trị truyền thống. Xu hướng trong thời gian gần sắp tới trong điều trị mụn có thể sẽ là sự kết hợp thiết bị dựa trên năng lượng và thuốc điều trị tại chỗ trong điều trị mụn.
Một số thuốc mới
Thuốc bôi
Cơ chế hoạt động của các thuốc bôi mới được trình bày ở đây bao gồm ức chế sản xuất bã nhờn, chống sừng hóa, kháng khuẩn và chống viêm.
+ Thuốc tác động trên tuyến bã nhờn
Dimethylcurcumin
Là một chất kháng androgen không steroid và một curcuminoid tổng hợp đang được phát triển thành một loại thuốc bôi ngoài da để điều trị mụn trứng cá thông thường. Dimethylcurcumin là chất ức chế thụ thể androgen và thể hiện hoạt động kháng androgen mạnh và đặc hiệu trong ống nghiệm. Tuy nhiên, cơ chế hoạt động và tác dụng của nó khác với các thuốc kháng androgen thông thường, nó không phải là chất đối kháng của thụ thể androgen mà thay vào đó dường như hoạt động như chất tăng cường phân hủy chọn lọc của một số phân nhóm thụ thể androgen.
Clascoteron (hay cortexolone 17 α-propionate)
Là hoạt chất kháng androgen có cấu trúc tương tự Dihydrotestosteron(là một dạng chuyển hóa của testosterone) - DHT. Cơ chế chính của clascoteron trong điều trị mụn trứng cá là cạnh tranh với thụ thể của DHT từ đó giúp giảm tiết bã nhờn và các cytokin tiền viêm. Do đó clascoteron đánh nhiều hơn một cơ chế vào sinh bệnh học của mụn trứng cá. Có vẻ như clascoterone bôi tại chỗ không có tác dụng như một loại thuốc can thiệp nhanh, mà tác dụng hơn đối với việc sử dụng lâu dài hoặc duy trì. Thuốc hiện đã được phê duyệt lưu hành trên thị trường Hoa Kỳ kể từ tháng 10 năm 2020. Hiện chưa thấy có mặt tại thị trường Việt Nam.
Cannabinoids có tác động đến hoạt động của tế bào bã nhờn.
Cannabidiol (CBD) phát huy tác dụng giảm lượng bã nhờn và chống viêm với mụn trứng cá từ trung bình đến nặng hiện được đánh giá hiệu quả và độ an toàn[9].
Chiết xuất quả Silybum marianum - quả cây kế sữa
Một loại kem có kết cấu nhẹ chứa chiết xuất từ quả Silybum marianum đã được đánh giá hiệu quả giảm tiết bã nhờn ở bệnh nhân bị mụn trứng cá. Kết quả khả năng dung nạp của sản phẩm là "tốt" hoặc "rất tốt" ở khoảng 95% bệnh nhân và hiệu quả của sản phẩm là "hiệu quả" hoặc "rất hiệu quả" ở khoảng 80% bệnh nhân.[10]
Hợp chất GSK1940029
Là một hợp chất ức chế hiệu quả chuyển hóa lipid ở tuyến bã.
Gel điều biến PPARγ tại chỗ N-acetyl-GED-0507–34-LEVO (1%): Chất chủ vận PPARγ điều chỉnh quá trình tạo mỡ bã nhờn bằng cách ức chế biểu hiện gen và protein cơ bản của quá trình tạo mỡ, kích hoạt PPARγ còn có thể chống lại và ức chế các phản ứng viêm do NF-κB và AP-1 trung gian.
+ Thuốc tác động trên sừng hóa nang lông
Nhóm retinoid có tác dụng to lớn trong điều trị mụn, nhưng có nhiều tác dụng phụ trên da. Vì vậy việc đóng gói retinoid vào các chất mang dạng túi như liposome và ethosome và chất mang hạt nano có thể cải thiện đáng kể tác dụng của chúng trong điều trị mụn trứng cá và có lẽ ít tác dụng phụ tại chỗ hơn. Một công thức của ethosome bôi ngoài da chứa retinyl palmitate được nghiên cứu thử nghiệm có hiệu quả đáng kể trong việc kiểm soát mụn trứng cá thông thường với khả năng dung nạp da tuyệt vời.[11]
Trifarotene
Tác động chọn lọc trên thụ thể axit retinoic (RAR)-γ. Khi dùng tại chỗ, nó có thể ảnh hưởng và điều chỉnh một số gen liên quan đến sự tăng sinh và biệt hóa của biểu bì như sừng hóa ở thành nang, b**g vảy và kết dính tế bào. Nó cũng có một số tác động đối với sắc tố, giúp làm sáng da. Công thức kem 0,005% được đánh giá trong hai thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát phương tiện, ngẫu nhiên, đa trung tâm, nhóm song song, mù đôi, kéo dài 12 tuần giống hệt nhau trên 2420 bệnh nhân cho thấy kem trifaroten làm giảm đáng kể các tổn thương viêm ngay sau 2 tuần trên mặt và 4 tuần trên lưng, vai và ngực so với nhóm chứng (p < 0,05). Nồng độ 0,005% được dung nạp tốt khi sử dụng trên mặt, lưng, vai và ngực, có vẻ giảm các tác dụng phụ thường thấy của các retinoids khác. Các phản ứng bất lợi phổ biến nhất (tỷ lệ> 1%) bao gồm kích ứng tại chỗ bôi thuốc, ngứa tại chỗ và cháy nắng. Trifarotene đã được FDA chấp thuận vào tháng 10 năm 2019 cho bệnh nhân mụn trứng cá từ 9 tuổi trở lên và ở Châu Âu vào năm 2020.
+ Thuốc tác động lên hệ vi sinh trên da
Minocycline 4%
Dạng xịt có hiệu quả với tình trạng từ trung bình đến nặng, công thức 4% đã được FDA chấp thuận vào tháng 10 năm 2019.
Gel bôi ngoài da VB-1953 2%
Là thuốc kháng sinh diệt khuẩn tại chỗ đầu tiên được nhắm mục tiêu điều trị mụn trứng cá viêm từ trung bình đến nặng, với cơ chế hoạt động mới bao gồm khả năng giảm viêm cũng như khả năng điều trị các chủng C. acnes kháng kháng sinh đã được chứng minh.[12]
Ngoài ra Nano bạc, thiopeptide… được dùng để tiêu diệt vi khuẩn C.acne đã kháng các kháng sinh đường bôi như clindamycin.
Cấy ghép tại chỗ hệ vi sinh vật với các chủng C. acnes khác thường xuất hiện ở da bình thường, không thúc đẩy quá trình viêm cũng đang được nghiên cứu. Các chủng này được vật chủ chấp nhận và dẫn đến giảm số lượng các chủng đọc lực cao gây bệnh. [13]
Thuốc uống
+ Thuốc kháng sinh mới
Một phân tử peptide-aminoglycoside mới có tên Pentobra
Đã được chứng minh trong ống nghiệm có hoạt tính diệt khuẩn mạnh hơn tobramycin. Phức hợp này có sự kết hợp hiệu quả khá độc đáo. Pentobra kết hợp hoạt tính ribosome mạnh của aminoglycoside với khả năng thẩm thấu màng chọn lọc vi khuẩn của peptide kháng khuẩn (AMP). Pentobra đã chứng minh khả năng tiêu diệt P. acnes mạnh mẽ và chọn lọc , nhưng không gây ảnh hưởng đến tế bào da người. Cụ thể cơ chế tác động như thế nào?
Peptid kháng khuẩn - AMP thường chỉ thể hiện hiệu lực phá vỡ màng ở mức độ trung bình. Aminoglycoside được biết là thường nhắm vào ribosome của vi khuẩn bằng cách liên kết với vị tiểu đơn vị ribosome 30S, dẫn đến dịch mã sai lệch và tiêu diệt vi khuẩn, nhưng vì các phân tử không thể xuyên qua màng tế bào chất của tế bào kỵ khí để đến ribosome của vi khuẩn nên hiệu quả diệt khuẩn kém với C.acnes. Khi được kết hợp đặt cạnh nhau, các cơ chế tác động riêng biệt của aminoglycoside và AMP trở nên bổ sung cho nhau. Các peptid - aminoglycoside hoạt động trên màng có thể tiêu diệt vi khuẩn bằng cách phá vỡ màng, đồng thời có thể xâm nhập vào tế bào và can thiệp vào quá trình dịch mã ribosome. Vì vậy Pentobra có tác dụng chống lại nhiều loại chủng vi khuẩn C. acnes lâm sàng.[14]
Zolav(®) (một dẫn xuất của p-carboethoxy-tristyrylbenzene)
Một loại kháng sinh mới để điều trị mụn trứng cá : Zolav thuộc nhóm kháng sinh mới, có cơ chế tác động khác biệt so với các loại kháng sinh truyền thống, cụ thể là nhắm vào các kênh ion nhạy cảm với cơ học của vi khuẩn. [15]
+ Điều trị sinh học
Adalimumab, là một loại thuốc sinh học được sử dụng để điều trị các bệnh tự miễn khác nhau. Nó hoạt động bằng cách ức chế một loại protein gọi là yếu tố hoại tử khối u alpha (TNF-α), đóng một vai trò trong chứng viêm. Bằng cách ngăn chặn TNF-α, adalimumab giúp giảm viêm, đau và các triệu chứng khác liên quan đến các tình trạng này. Thuốc giảm viêm và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng mụn trứng cá, cải thiện tình trạng da tổng thể.
Secukinumab: chất ức chế IL-17 và IL-23 điều chỉnh phản ứng miễn dịch bằng cách nhắm mục tiêu và ức chế các cytokine cụ thể liên quan đến tình trạng viêm.
Thuốc ức chế phosphodiesterase đường uống: Phosphodiesterase (PDE) là một nhóm enzyme đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa nồng độ của các phân tử truyền tin có vai trò lớn trong các phản ứng miễn dịch, viêm. Apremilast, một chất ức chế PDE-4 đã được sử dụng trong điều trị vẩy nến, trong điều trị hội chứng viêm màng hoạt dịch, tăng sản xương và viêm xương… Giờ đây đã được thử nghiệm trong điều trị giảm viêm ở bệnh nhân bị mụn trứng cá với nhiều hiệu quả khả quan. Đặc biệt dùng trong trường hợp bùng phát trứng cá nặng do Isotretinoin gây ra. [16]
Men vi sinh đường uống
Tăng cường chức năng miễn dịch toàn thân, đặc biệt là hàng rào vi sinh trên da và điều chỉnh phản ứng viêm tại chỗ thông qua việc tăng nồng độ cytokine chống viêm như IL-10. Một nghiên cứu so sánh men vi sinh đường uống, minocycline đường uống và liệu pháp kết hợp đã báo cáo sự cải thiện đáng kể các tổn thương mụn trứng cá ở cả ba nhóm sau 1 tháng với liệu pháp kết hợp có hiệu quả cao nhất.[17]
Probiotics có thể được coi là một lựa chọn điều trị hoặc hỗ trợ cho bệnh mụn trứng cá thông thường bằng cách cung cấp tác dụng chống viêm hiệp đồng với thuốc kháng sinh toàn thân đồng thời cũng làm giảm các tác dụng phụ tiềm ẩn do sử dụng kháng sinh lâu dài.
Kết luận
Mụn trứng cá là một bệnh lý da liễu viêm mạn tính, đa yếu tố với cơ chế bệnh sinh phức tạp. Mặc dù đã có nhiều phương pháp điều trị tại chỗ và toàn thân, một tỷ lệ đáng kể bệnh nhân vẫn đang vật lộn để đạt được hiệu quả điều trị bền vững. May mắn thay, những nghiên cứu đang diễn ra về cơ chế bệnh sinh của mụn trứng cá đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của các chiến lược điều trị mới. Những can thiệp sáng tạo này mang đến tiềm năng tối ưu hóa kết quả lâm sàng, tăng cường sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân và nâng cao sự hài lòng của họ. Một số thành quả của quá trình đó BS có tổng hợp ở trên, trong đó có những phương pháp điều trị rất tiềm năng trong thời gian sắp tới.
Bác Sĩ Thành