
13/03/2024
🌺 THIÊN TÍNH NỮ VÀ GÓC NHÌN GIỚI TÍNH TRONG VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 🌺
Nguyễn Thị Năm Hoàng*
( Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội )
🌸 Trong quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam đương đại, sự xuất hiện ngày càng phong phú, đa hương sắc của một loạt cây bút nữ đã khiến cho nền văn học mang một diện mạo mới. Tiếng nói của phụ nữ trong văn chương không chỉ phá vỡ thế “độc tôn” của nam giới trong văn học mà thậm chí, khiến cho cả sáng tác của nhiều nhà văn nam cũng mang đậm thiên tính nữ. Thiên tính nữ - sự quan tâm đến số phận, tính cách, tâm hồn người phụ nữ, và cách thức diễn tả, lý giải về thế giới từ góc nhìn giới tính được thể hiện rất phong phú trên nhiều cấp độ đã khiến cho gương mặt văn chương trở nên vừa sắc sảo, vừa khoan dung, nhân hậu và tinh tế. Vì lẽ đó, nhiều nhà nghiên cứu đã dùng những cụm từ “gương mặt nữ”, “Thiên tính nữ”, “âm hưởng nữ quyền” để định tính nền văn học. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích “Thiên tính nữ” và góc nhìn giới tính như một hiện tượng thú vị và đặc sắc của văn chương Việt Nam đương đại.
🌸 Vài nét về Chủ nghĩa nữ quyền và sáng tác của các cây bút nữ trong văn học Việt Nam đương đại, Chủ nghĩa nữ quyền (Feminism) là một trào lưu tư tưởng - xã hội chống lại chế độ nam quyền, đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ, và văn học nữ quyền là sự lên tiếng của các nhà văn nữ với tư cách là những chủ thể trải nghiệm và chủ thể sáng tạo, chống lại sự kiềm toả, áp đặt của tư tưởng nam quyền về hình ảnh người phụ nữ qua các sáng tác văn chương. Cùng với sáng tác, phê bình văn học nữ quyền cũng ra đời gắn liền với những phong trào phụ nữ cuối thập niên 60, đầu 70 của thế kỷ XX. Lý thuyết về Chủ nghĩa nữ quyền được nêu và tổng kết trong một số công trình quan trọng của Robert Stoller, Barbara Johnson, Dale Spender, Mary Eagleton, Toril Moi, Julie Rivkin Michael Ryan, Judith Butler, Hélène Cixous... Trong nghiên cứu và phê bình văn học, Annis Pratt xác định mục tiêu cơ bản của các nhà nữ quyền luận là phát hiện tác phẩm của các tác giả nữ, phân tích đặc điểm hình thức văn bản của các tác phẩm đó, tìm hiểu quan hệ giữa nam giới và nữ giới trong các tác phẩm đó, và tìm hiểu sự phát triển của các yếu tố huyền thoại và tâm lý liên quan đến phụ nữ trong văn chương. Elaine Showalter có tham vọng xây dựng được một bộ khung lý thuyết và mỹ học riêng cho các nhà phê bình nữ để tiếp cận và giải mã tác phẩm của các nhà văn nữ nhằm vượt thoát khỏi hệ thống lý thuyết và mỹ học do các nhà phê bình nam giới xác lập nên... Nhìn chung, lý thuyết Nữ quyền có ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống tri thức và văn hoá của thời đại, tạo nên những thay đổi đáng kể trong cách đọc văn bản, trong phê bình và trong tiếp nhận văn học nói chung. Sự vận dụng lý thuyết Nữ quyền trong nghiên cứu các hiện tượng văn học, các tác giả và các nền văn học đã được thực hiện với những cấp độ khác nhau trong nền văn học các nước và tạo ra những thành tựu quan trọng. Đặc biệt, cuốn sách của Simonde de Beauvoir: Le deuxième sexe (đã được dịch sang tiếng Việt dưới nhan đề Giới nữ, NXB Phụ nữ ấn hành năm 1996) là một công trình có ảnh hưởng mạnh mẽ đến phê bình văn học từ lý thuyết về giới.
🌸 Trong văn học Việt Nam, việc có hay không Chủ nghĩa nữ quyền trong sáng tác văn chương vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi giữa các nhà phê bình, nhưng sự thể hiện của Thiên tính nữ với những cấp độ và sắc thái khác nhau, là điều đã được khẳng định, đồng thời tạo nên sự hấp dẫn đối với độc giả và giới nghiên cứu*. Thiên tính nữ, nữ tính (Femininity) trong văn chương là đặc điểm, là nguyên tắc tư duy nghệ thuật, cách thức tổ chức tác phẩm mang bản sắc phái nữ hoặc sự đề cao những phẩm chất và giá trị của phụ nữ. Đặc điểm này có thể có ở cả sáng tác của những nhà văn nam, không phải đặc điểm riêng có trong tác phẩm của các cây bút nữ. Vậy, Thiên tính nữ trong văn chương có nguồn gốc từ đâu trong đời sống văn hoá, lịch sử dân tộc?
🌸 Ở Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu là một trong những tín ngưỡng quan trọng và phổ biến đối với đời sống tinh thần, tâm linh của người Việt. Một tôn giáo lớn là Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam cũng đã có sự kết hợp với tín ngưỡng này mà biểu hiện rõ nét, dễ thấy là sự tồn tại đồng thời cả ban thờ Phật và ban thờ Mẫu trong các ngôi chùa. Sự tôn thờ Mẫu dưới những dạng thức khác nhau cùng với sự lưu hành, truyền tụng những thần thoại, truyền thuyết về sức mạnh khởi nguyên, kiến tạo vũ trụ, sản sinh nòi giống dân tộc của người phụ nữ như Nữ Oa đội đá vá trời, Lạc Long Quân - u Cơ..., phải chăng ít nhiều đã trở thành một thứ tiềm thức, để người Việt luôn bảo tồn và gìn giữ cái nhìn trân trọng, thành kính đối với người phụ nữ. Và ở thời đại hiện nay, cái nhìn ấy hơn lúc nào hết được thể hiện rộng rãi trong đời sống, đồng thời khúc xạ vào tư duy nghệ thuật của các nghệ sĩ, một cách mạnh mẽ, sâu sắc và vô cùng phong phú.
🌸 Trong văn học trung đại, mặc dù dưới sức ép của Nho giáo với tư tưởng trọng nam khinh nữ, nền văn học dân tộc, cho dẫu là hi hữu, vẫn có những tác giả nữ ghi dấu ấn một cách mạnh mẽ. Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan là những hiện tượng tiêu biểu. Bên cạnh đó, sự quan tâm đến thân phận và ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ - trên cả hai phương diện thân và tâm, cũng đã trở thành một đề tài, chủ đề quan trọng trong sáng tác của các tác giả nam, tạo nên những thành tựu rực rỡ cho nền văn học trung đại, đặc biệt là cuối thời trung đại. Tinh thần nhân đạo, nhân văn của Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Trần Tế Xương, Tản Đà... đã kiến tạo nên những hình tượng có sức sống lâu bền, dệt nên những tác phẩm đạt đến giá trị mang tính cổ điển mà sức ảnh hưởng, sự lan toả còn kéo dài đến văn học hiện đại. Đó là những tiền đề quan trọng cho sự xuất hiện ngày càng đỡ thưa thớt hơn của người phụ nữ trong văn chương Việt Nam thế kỷ XX, ở cả đội ngũ sáng tác lẫn thế giới nhân vật.
🌸 Sau khi chế độ phong kiến với hệ tư tưởng Nho giáo đề cao nam quyền chính thức kết thúc vào năm 1945, đất nước Việt Nam lại trải qua 30 năm với điều kiện đặc biệt của chiến tranh - một điều kiện xã hội mà nam giới chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Phải đợi đến thời kỳ đương đại từ sau năm 1975, và đặc biệt là từ thời kỳ Đổi mới (1986 đến nay), người phụ nữ mới thực sự được giải phóng về mọi mặt và có điều kiện tham dự vào hầu hết các phương diện của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực văn chương nghệ thuật, sự xuất hiện với số lượng lớn và ngày càng thành công của các cây bút nữ là một hiện tượng đặc sắc về đội ngũ sáng tác giai đoạn này. Hội Nhà văn Việt Nam - tổ chức chính thống lớn nhất của những người làm văn chương, có hơn 200 hội viên nữ hoạt động trong các lĩnh vực văn xuôi, thơ và nghiên cứu, phê bình. Nhiều thế hệ nhà văn nữ đã ghi dấu tên tuổi của mình với sáng tác ở tất cả các thể loại: từ những nhà văn trưởng thành trong chiến tranh như Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Nguyễn Thị Ngọc Tú, qua những nhà văn xuất hiện ngay sau cuộc chiến như Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm, Dạ Ngân, Trần Thuỳ Mai, qua những nhà văn của thời kỳ Đổi mới như Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Dạ Ngân, Võ Thị Xuân Hà, đến một loạt nhà văn trẻ thế hệ 7X, 8X như Phan Huyền Thư, Vi Thuỳ Linh, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thuý, Võ Diệu Thanh, Nguyễn Thị Châu Giang, Phong Điệp, Trang Hạ, DiLi, và cả nhiều cây bút trẻ mới vào nghề.
🌸 Trước sự góp mặt ngày càng đông đảo và mạnh mẽ của các cây bút nữ đối với quá trình vận động và phát triển của văn học nước nhà, năm 2015, Nhà xuất bản Hội Nhà văn đã cho ra mắt bộ sách Phái đẹp, Cuộc đời và Cây bút, tập hợp sáng tác của gần 100 nữ sĩ trong các lĩnh vực thơ, văn xuôi và lý luận phê bình văn học. Không chỉ ở trong nước, có những cây bút nữ người Việt đang định cư ở nước ngoài cũng thường xuyên xuất bản tác phẩm tại Việt Nam mà trường hợp điển hình là Thuận và Đỗ Hoàng Diệu... Sự đa dạng về bút pháp, phong cách của đội ngũ các nhà văn nữ đã làm nên một vườn hoa nhiều hương sắc cho văn học Việt Nam đương đại. Tất nhiên, nói đến thành tựu văn học giai đoạn này, cũng không thể không nhắc tới tên tuổi của rất nhiều nhà văn nam xuất sắc như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Thiều, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà..., tuy nhiên, số lượng và chất lượng của các nhà văn nữ, như chúng tôi vừa mô tả, đã đem lại cho đội ngũ sáng tác một nét nữ tính rất đặc biệt, nét riêng của thời đương đại. Nhưng đó mới chỉ là sự phác thảo trên bề mặt, Thiên tính nữ của văn chương Việt Nam đương đại được thể hiện rõ nét trên các phương diện khác nhau của thế giới nghệ thuật.
🌸 Thiên tính nữ và một số phương diện của chủ nghĩa nữ quyền trong văn chương Việt Nam đương đại. Từ sự mở rộng phạm vi phản ánh về thế giới phụ nữ...Mặc dù số phận, cuộc sống của người phụ nữ là một đề tài vô cùng quen thuộc trong văn học Việt Nam, thậm chí đã từng đem lại thành tựu lớn cho nhiều tác phẩm văn học thời trung đại, cũng như văn học hiện đại trước năm 1975, nhưng chưa bao giờ, nó được quan tâm thể hiện một cách phong phú như trong văn chương đương đại. Không chỉ là sự đồng cảm, xót thương của các nhà văn với những kiếp người bé nhỏ, tội nghiệp trong xã hội, văn chương đương đại đã phản ánh cuộc sống của người phụ nữ trong tính toàn vẹn, chân thực, đa dạng sắc thái thẩm mỹ bao gồm cả cái đẹp và cái xấu, hạnh phúc và khổ đau; và tâm hồn họ cũng phức tạp với cả mặt cao thượng và thấp hèn, cả sự tự tin, chủ động, mạnh mẽ lẫn yếu đuối, trì trệ, lệ thuộc, và đặc biệt là tinh thần phản tư - tự đối diện và đấu tranh với chính mình. Có những người phụ nữ là nạn nhân của hoàn cảnh, của chiến tranh với một số phận bi kịch như Thuỳ Châu trong Vũ điệu địa ngục của Võ Thị Hảo, các nhân vật nữ trong Nhiệt đới gió mùa của Lê Minh Khuê. Trước sự khắc nghiệt của hoàn cảnh, với những phẩm chất truyền thống như nhẫn nại, hy sinh, chung thuỷ, có những nhân vật đã trở thành trung tâm của thế giới, trở thành biểu tượng cho cái Đẹp, cái Thiện cuối cùng còn sót lại của thế gian, là điểm tựa để con người còn giữ được niềm tin, sự lạc quan trước sự tha hoá khôn lường của tính cách như ở Trăng nơi đáy giếng của Trần Thuỳ Mai.
🌸 Bên cạnh đó, nhiều tác giả nữ đã sáng tạo nên những nhân vật phụ nữ vượt lên trên ràng buộc của hoàn cảnh, tự tạo ra những bước ngoặt để đưa cuộc đời mình chủ động rẽ sang một hướng khác như Thảo trong Người sót lại của rừng cười của Võ Thị Hảo, người vợ trong Tân cảng của Nguyễn Thị Thu Huệ. Người phụ nữ dám sống hết mình, dấn thân, cuồng si trong tình yêu, trong những niềm tin, những nguyên tắc riêng cực đoan, khờ dại của tuổi thanh xuân, cho dù những đam mê ấy có thể phải trả những cái giá rất đắt như những cô gái trẻ trong Yêu, Khi người ta trẻ của Phan Thị Vàng Anh. Thơ Vi Thuỳ Linh ở nhiều bài bộc lộ tâm tư của người con gái chủ động bày tỏ tình yêu, khát vọng kiếm tìm hạnh phúc cá nhân, tự dấn thân vào tình yêu - ngay cả khi tình yêu gắn với nỗi buồn và cô đơn tột độ: Em lầm lũi lại đến trước nhà anh/Nhặt xác nỗi buồn/Đốt lên thành lửa/Rồi đi/Sau lưng em ngày nắng tắt (Từ phía ngày nắng tắt); Anh yêu của em/ Em yêu anh cuồng điên/ Yêu đến tan cả em/ào tung ký ức/Ngày dài hơn mùa/Em mong mỏi/Em (có lúc) như một tội đồ nông nổi (Người dệt tầm g*i)...
🌸 Với tư cách là những con người ý thức cao về phẩm giá của bản thân và có cái nhìn thấu thị về đời sống, có những nhân vật nữ trở thành người phán xử hiện thực như cô con gái phát hiện những lỗi lầm của cha mình trong Kịch câm của Phan Thị Vàng Anh. Và nhiều nhân vật nữ đã tự nhìn ngắm tâm hồn mình để suy ngẫm, tự phản biện, tự đối thoại, tự phán xét để trưởng thành như cô con gái trong Còn lại một vầng trăng, My trong Thiếu phụ chưa chồng của Nguyễn Thị Thu Huệ, Dư trong Một mình của Lê Minh Khuê: họ đã lầm đường lạc lối, đã từng sai, đã từng ích kỷ, nhưng không cần đến sự bình phẩm, phê phán, lên án của người khác, với những trải nghiệm của bản thân, họ đã tự nhìn lại chính mình, tự đấu tranh với chính mình để vượt qua những sai lầm đó. Đó là sự phát triển lên một bước mới của yếu tố Nữ tính trong văn chương. Từ chỗ bày tỏ những khát khao về hạnh phúc, khát khao làm chủ cuộc đời trong văn học những giai đoạn trước, đến giai đoạn này, các nhân vật nữ đã thực sự là chủ nhân của những diễn ngôn về đời sống trong tư thế đứng bên trên những lẽ phải thông thường, những định kiến xã hội, tự mình tiếp cận chân lý.
🌸 Nếu các nhà văn nam vẫn thiên về ca ngợi phụ nữ như một biểu tượng cho cái Đẹp bền bỉ và thuỷ chung như Nguyễn Minh Châu trong Cỏ lau, Nguyễn Huy Thiệp trong Không có vua, Nguyễn Quang Thiều trong Hai người đàn bà xóm Trại, Nguyễn Bình Phương trong Thoạt kỳ thuỷ..., thì các nhà văn nữ đã để cho người phụ nữ trong sáng tác của họ dám vượt lên trên những ràng buộc đạo đức truyền thống, dám từ bỏ những danh hiệu đạo đức cao quý để đi theo tiếng gọi của bản năng, của khát vọng hạnh phúc, khát vọng khẳng định cá tính, và lên tiếng vì những nhu cầu chính đáng đó. Đó chính là cách để các cây bút nữ góp phần làm thay đổi quan niệm thẩm mỹ - đạo đức, thay đổi những định kiến về giới trong xã hội đương đại.
🌸 Viết về người phụ nữ, văn chương đương đại thường xoay quanh các đề tài mang đậm dấu ấn giới tính: tình yêu, hôn nhân, gia đình. Tình yêu, hôn nhân là lĩnh vực gần gũi nhất với người phụ nữ, là điều mang đến cho họ nhiều trái ngọt và cũng nhiều vị đắng, đã được các nhà văn diễn tả trong tác phẩm với vô vàn sắc thái, tình huống khác nhau. Nhưng khác với các tác phẩm trước năm 1945 hướng đến đấu tranh cho tự do yêu đương, tự do hôn nhân của người phụ nữ, văn chương đương đại xây dựng cả những nhân vật dám hy sinh hạnh phúc gia đình, hy sinh hôn nhân như một sự ràng buộc để bảo toàn tự do tư tưởng, lòng tự trọng, ý thức về bản ngã và cái tôi cá nhân của mình. Tình yêu ơi, ở đâu?, Tân cảng của Nguyễn Thị Thu Huệ, Con chó và vụ ly hôn của Dạ Ngân, Trò chơi huỷ diệt cảm xúc của Y Ban là những tác phẩm như vậy. Và tình dục - một vấn đề rất hạn chế xuất hiện trong văn học các giai đoạn trước, đã trở thành một phương diện làm nên đời sống của các nhân vật. Vẻ đẹp của cơ thể, sức hấp dẫn nhục thể, những khát khao và sự chủ động bày tỏ ham muốn tình dục là điều được các nhân vật nữ ý thức sâu sắc và thể hiện ở những cấp độ khác nhau: khi thẹn thùng e lệ, khi nồng nàn mãnh liệt; khi kín đáo qua những ẩn dụ nghệ thuật, khi trực tiếp, bột phát; khi hồn nhiên trong trẻo, khi cuồng nhiệt đầy ý thức; và có những khi phá phách, nổi loạn... Sau những mùa trăng của Đỗ Bích Thuý, I am đàn bà của Y Ban, Bóng đè, Lam Vỹ của Đỗ Hoàng Diệu, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, Paris 11 tháng 8, VânVy của Thuận, thơ Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư... là những tác phẩm đề cập đến phương diện này ở mức độ khá đậm đặc. Bày tỏ khát vọng tình dục một cách mạnh mẽ, táo bạo, các tác phẩm văn chương đương đại không chỉ nói lên thiên tính, thiên chức của phụ nữ mà còn lý giải, nhìn nhận các vấn đề xã hội, lịch sử, văn hoá từ góc nhìn nữ giới với tất cả những góc cạnh, những chiều kích mang tính nhân bản của nó. Đó cũng là một cách để họ đả phá cái nhìn nam quyền, gia trưởng, một chiều, đả phá văn hoá phụ quyền, tư duy “duy dương vật” (phallocentric thinking) - “lối tư duy do nam giới áp đặt (trong hệ thống từ ngữ, nguyên tắc logic, và hệ tiêu chí về các chủ đề tri thức được quan tâm) qua hệ thống giáo dục, chính trị, pháp luật và kinh tế” [1], từ lâu tồn tại trong xã hội như một lẽ đương nhiên và gây nên những định kiến, kìm nén, cản trở sự phát triển tự nhiên, nhân bản của đời sống.
Không chỉ khai thác đời sống, tâm lý, tính cách của người phụ nữ một cách phóng khoáng và sâu sắc hơn, nhiều tác phẩm còn cho thấy những băn khoăn của nhà văn về bản sắc, căn tính dân tộc của phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, giao lưu văn hoá quốc tế. Hình ảnh những nhân vật nữ băn khoăn đi tìm ý nghĩa tồn tại của mình giữa một môi trường văn hoá ngoại quốc - với cả khát vọng hoà nhập và ý thức giữ gìn bản thể - trong Phố Tàu, Paris 11 tháng 8, T mất tích của nhà văn Thuận, Quyên của Nguyễn Văn Thọ, trong tập truyện ngắn Khung trời bỏ lại của các nhà văn nữ hải ngoại, hay những cô gái trẻ trung, năng động, tràn đầy năng lượng đang chinh phục thử thách để thành công trong môi trường quốc tế nhằm khẳng định giá trị bản thân và kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc trong Oxford thương yêu, Nhắm mắt thấy Paris, Bồ câu chung mái vòm, Cung đường vàng nắng, Chờ em đến San Francisco của Dương Thụy chính là nơi để các nhà văn thể hiện quan niệm về căn tính dân tộc trong bối cảnh hiện nay. Bản sắc, căn tính Việt không nhất thành bất biến, không chỉ đơn giản là vịnh Hạ Long, Quốc Tử Giám hay món nem rán giòn rụm..., mà quan trọng hơn, phải là hình ảnh, là những phẩm chất, những giá trị Việt được xác lập trong cộng đồng quốc tế, là những suy tư, trăn trở về bản sắc dân tộc giữa sức hấp dẫn và cả những áp lực của sự hội nhập. Với sự mẫn cảm bẩm sinh và khả năng tự cân bằng cuộc sống, các nhân vật nữ đã hiện lên vừa như một sứ giả của dân tộc, của văn hoá Việt Nam, vừa như những “công dân toàn cầu” mang làn gió mới vào thế giới trải nghiệm tưởng tượng của người đọc. Đó cũng là một sự mở rộng phạm vi phản ánh của văn chương mang Thiên tính nữ trong thời đại ngày nay, một nét riêng biệt mang tính thời đại.
🌸 Như vậy, có thể thấy, dù hình tượng người phụ nữ đã vô cùng quen thuộc, nhưng văn chương đương đại đã đưa người đọc vào hành trình khám phá hình tượng ấy với một chiều rộng lớn lao và một bề sâu thăm thẳm, để đời sống và thế giới tinh thần của người phụ nữ hiện lên trong tất cả sự đa dạng, phong phú, phức tạp, nhiều màu sắc, từ đó những vấn đề của xã hội, của dân tộc, của thời đại cũng được nhìn nhận và lý giải từ góc nhìn giới tính để trở nên mới mẻ, thú vị, đa chiều hơn. Đó chính là sự thể hiện của Thiên tính nữ trên phương diện phạm vi phản ánh của văn chương đương đại.
Nguồn: https://b.vjst.vn/index.php/ban_b/article/download/325/315/1236
( Nguyễn Thị Năm Hoàng*
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Ngày nhận bài 12/11/2018; ngày chuyển phản biện 14/11/2018; ngày nhận phản biện 7/12/2018; ngày chấp nhận đăng 11/12/2018 )