16/09/2020
HPV và Ung thư cổ tử cung: những điều cần biết?🔞
1️⃣ HPV là gì?
Human papillomavirus (HPV) là bệnh nhiễm vi rút phổ biến nhất ở đường sinh dục.
Có nhiều loại HPV, và nhiều loại không gây ra vấn đề. Nhiễm HPV thường khỏi mà không cần can thiệp gì trong vòng vài tháng sau khi mắc phải, và khoảng 90% khỏi trong vòng 2 năm. Một tỷ lệ nhỏ trường hợp nhiễm một số loại HPV có thể tồn tại và tiến triển thành ung thư cổ tử cung.
Cho đến nay, ung thư cổ tử cung là căn bệnh liên quan đến HPV phổ biến nhất. Gần như tất cả các trường hợp ung thư cổ tử cung đều có thể là do nhiễm vi rút HPV.
Việc nhiễm một số loại HPV cũng gây ra một tỷ lệ ung thư hậu môn, âm hộ, âm đạo, dương vật và hầu họng, có thể phòng ngừa được bằng các chiến lược phòng ngừa chính tương tự như ung thư cổ tử cung.
2️⃣ Nhiễm HPV dẫn đến ung thư cổ tử cung như thế nào
Mặc dù hầu hết các trường hợp nhiễm HPV đều tự khỏi và hầu hết các tổn thương tiền ung thư tự khỏi, nhưng đối với tất cả phụ nữ, có nguy cơ nhiễm HPV có thể trở thành mãn tính và các tổn thương tiền ung thư tiến triển thành ung thư cổ tử cung xâm lấn.
Phải mất 15 đến 20 năm ung thư cổ tử cung mới phát triển ở những phụ nữ có hệ miễn dịch bình thường. Có thể chỉ mất từ 5 đến 10 năm ở những phụ nữ có hệ miễn dịch suy yếu, chẳng hạn như những người nhiễm HIV chưa được điều trị.
👉 Các yếu tố nguy cơ khiến HPV tồn tại và phát triển ung thư cổ tử cung:
• Loại HPV - khả năng gây ung thư hoặc khả năng gây ung thư của nó;
• Tình trạng miễn dịch - những người bị suy giảm miễn dịch, chẳng hạn như những người sống chung với HIV, có nhiều khả năng bị nhiễm trùng HPV dai dẳng và tiến triển nhanh hơn thành tiền ung thư và ung thư;
• Đồng nhiễm với các tác nhân lây truyền qua đường tình dục khác, chẳng hạn như những tác nhân gây bệnh herpes simplex, chlamydia và bệnh lậu;
• Số lần đẻ và tuổi trẻ khi sinh lần đầu;
• Có nhiều đối tác trong quan hệ tình dục
• Hút thuốc lá
• Béo phì
• Các tổn thương sẵn có tại cổ tử cung
🔈🔈🔈 Gánh nặng toàn cầu về ung thư cổ tử cung
Trên toàn thế giới, ung thư cổ tử cung là bệnh ung thư thường gặp thứ tư ở phụ nữ với ước tính khoảng 570 000 ca mắc mới trong năm 2018, chiếm 7,5% tổng số ca tử vong do ung thư ở nữ giới. Trong số ước tính hơn 311 000 ca tử vong do ung thư cổ tử cung hàng năm, hơn 85% trong số này xảy ra ở các vùng kém phát triển.
Ở các nước phát triển, các chương trình được thực hiện cho phép trẻ em gái được chủng ngừa HPV và phụ nữ được sàng lọc thường xuyên. Việc sàng lọc cho phép xác định các tổn thương tiền ung thư ở các giai đoạn mà chúng có thể dễ dàng được điều trị. Điều trị sớm ngăn ngừa đến 80% các trường hợp ung thư cổ tử cung ở các nước này.
Ở các nước đang phát triển, việc tiếp cận với các biện pháp phòng ngừa này bị hạn chế và ung thư cổ tử cung thường không được xác định cho đến khi nó tiến triển thêm và các triệu chứng phát triển. Ngoài ra, khả năng tiếp cận điều trị bệnh ở giai đoạn muộn như vậy (ví dụ, phẫu thuật ung thư, xạ trị và hóa trị) có thể rất hạn chế, dẫn đến tỷ lệ tử vong do ung thư cổ tử cung ở các nước này cao hơn.
Tỷ lệ tử vong cao do ung thư cổ tử cung trên toàn cầu (tỷ lệ là 6,9 / 100.000 năm 2018) có thể được giảm bớt bằng các biện pháp can thiệp hiệu quả.
WHO khuyến nghị một cách tiếp cận toàn diện để phòng ngừa và kiểm soát ung thư cổ tử cung. Tập hợp các hành động được đề xuất bao gồm các biện pháp can thiệp trong suốt cuộc đời. Điều này cần phối hợp đa ngành, bao gồm giáo dục sức khỏe cộng đồng, vận động xã hội, tiêm chủng, sàng lọc, điều trị và chăm sóc giảm nhẹ.
🏁🏁🏁 Các biện pháp nên làm
Phòng ngừa ban đầu bắt đầu bằng việc tiêm phòng HPV cho trẻ em gái từ 9-14 tuổi, trước khi họ có hoạt động tình dục.
Các can thiệp phòng ngừa được khuyến nghị khác cho trẻ em trai và trẻ em gái khi thích hợp là:
• Giáo dục về quan hệ tình dục an toàn, bao gồm cả việc trì hoãn bắt đầu hoạt động tình dục;
• Cung cấp bao cao su cho những người đã tham gia hoạt động tình dục;
• Cảnh báo về việc sử dụng thuốc lá, thường bắt đầu ở tuổi vị thành niên, và là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với ung thư cổ tử cung và các bệnh ung thư khác; và
• Cắt bao quy đầu ở nam giời từ sớm, tốt nhất trước 6 tuổi
Phụ nữ có hoạt động tình dục nên được tầm soát các tế bào cổ tử cung bất thường và các tổn thương tiền ung thư, bắt đầu từ 30 tuổi.
Nếu có dấu hiệu nghi ngờ ung thư cổ tử cung cần tới gặp bác sỹ chuyên khoa ung thư để được tư vấn lựa chọn các phương pháp điều trì phù hợp: phẫu thuật, xạ trị, hóa trị
🚩🚩🚩Tiêm phòng HPV
Hiện có 3 loại vắc xin bảo vệ chống lại cả hai loại HPV 16 và 18, được biết là nguyên nhân gây ra ít nhất 70% các ca ung thư cổ tử cung. Vắc xin thứ ba bảo vệ chống lại ba loại HPV gây ung thư bổ sung, gây ra thêm 20% trường hợp ung thư cổ tử cung. Cho rằng các loại vắc xin chỉ bảo vệ chống lại HPV 16 và 18 cũng có một số bảo vệ chéo chống lại các loại HPV ít phổ biến khác gây ung thư cổ tử cung, WHO coi ba loại vắc xin này đều bảo vệ chống lại ung thư cổ tử cung như nhau. Hai trong số các loại vắc-xin này cũng bảo vệ chống lại HPV týp 6 và 11, gây ra mụn cóc sinh dục.
Các thử nghiệm lâm sàng và giám sát sau tiếp thị đã chỉ ra rằng vắc-xin HPV rất an toàn và rất hiệu quả trong việc ngăn ngừa nhiễm trùng do nhiễm HPV.
Vắc xin HPV hoạt động tốt nhất nếu được tiêm trước khi tiếp xúc với HPV. Vì vậy, WHO khuyến cáo nên tiêm phòng cho các bé gái, từ 9 đến 14 tuổi, khi hầu hết chưa bắt đầu hoạt động tình dục.
Thuốc chủng không thể điều trị nhiễm HPV hoặc bệnh liên quan đến HPV, chẳng hạn như ung thư.
Một số quốc gia đã bắt đầu tiêm vắc xin cho trẻ em trai vì vắc xin này ngăn ngừa ung thư sinh dục ở nam cũng như nữ, và hai loại vắc xin hiện có cũng ngăn ngừa mụn cóc sinh dục ở nam và nữ. WHO khuyến nghị tiêm chủng cho trẻ em gái từ 9 đến 14 tuổi, vì đây là biện pháp sức khỏe cộng đồng hiệu quả nhất về chi phí chống lại ung thư cổ tử cung.
Tiêm phòng HPV không thay thế việc tầm soát ung thư cổ tử cung. Ở những quốc gia có vắc xin HPV, các chương trình sàng lọc vẫn có thể cần được phát triển hoặc tăng cường.
Tầm soát và điều trị các tổn thương tiền ung thư
Tầm soát ung thư cổ tử cung bao gồm xét nghiệm tiền ung thư và ung thư ở những phụ nữ không có triệu chứng và có thể cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh. Khi tầm soát phát hiện các tổn thương tiền ung thư, chúng có thể dễ dàng được điều trị và có thể tránh được ung thư. Tầm soát cũng có thể phát hiện ung thư ở giai đoạn đầu và điều trị có khả năng chữa khỏi cao.
Vì các tổn thương tiền ung thư cần nhiều năm để phát triển, nên việc tầm soát được khuyến cáo cho mọi phụ nữ từ 30 tuổi trở lên (tần suất phụ thuộc vào loại xét nghiệm được sử dụng). Đối với phụ nữ nhiễm HIV có quan hệ tình dục, việc sàng lọc cần được thực hiện sớm hơn, ngay khi biết tình trạng nhiễm HIV của mình.
Tầm soát phải được liên kết với tiếp cận điều trị và quản lý các xét nghiệm sàng lọc tích cực. Việc sàng lọc mà không có sự quản lý thích hợp là không có đạo đức.
Có 3 loại xét nghiệm sàng lọc khác nhau hiện được WHO khuyến nghị:
• Xét nghiệm HPV để tìm các loại HPV nguy cơ cao.
• kiểm tra trực quan bằng Axit Acetic (VIA)
• xét nghiệm thông thường (Pap) và tế bào học dựa trên chất lỏng (LBC)
Để điều trị các tổn thương tiền ung thư, WHO khuyến cáo sử dụng phương pháp áp lạnh và thủ thuật cắt bỏ phẫu thuật điện vòng (LEEP). Đối với các tổn thương tiến triển, phụ nữ nên được giới thiệu để điều tra thêm và xử trí thích hợp.
Chẩn đoán ung thư cổ tử cung phải được thực hiện bằng xét nghiệm mô bệnh học. Việc phân giai đoạn được thực hiện dựa trên kích thước khối u và sự lây lan của bệnh trong khung chậu và các cơ quan ở xa. Điều trị tùy thuộc vào giai đoạn của bệnh và các lựa chọn bao gồm phẫu thuật, xạ trị và hóa trị.
Vào tháng 5 năm 2018, Tổng Giám đốc WHO đã đưa ra lời kêu gọi hành động hướng tới loại trừ ung thư cổ tử cung và thu hút các đối tác và quốc gia tăng cường khả năng tiếp cận và bao phủ 3 can thiệp thiết yếu này để ngăn ngừa ung thư cổ tử cung: Tiêm phòng HPV, tầm soát và điều trị tiền ung thư tổn thương và quản lý ung thư cổ tử cung.
🇦🇺 🇯🇵 🇫🇷 🇱🇷 🇨🇰 🇬🇧 🇪🇺