Báo Chăm Sóc- Sức Khỏe - Đời Sống & Gia Đình

Báo Chăm Sóc- Sức Khỏe - Đời Sống & Gia Đình Contact information, map and directions, contact form, opening hours, services, ratings, photos, videos and announcements from Báo Chăm Sóc- Sức Khỏe - Đời Sống & Gia Đình, Medical and health, Hanoi.

Dầu ăn có rất ít hoặc không có acid arachidonic, là acid béo không no cần thiết có 3 liên kết kép trong thành phần và có...
10/07/2019

Dầu ăn có rất ít hoặc không có acid arachidonic, là acid béo không no cần thiết có 3 liên kết kép trong thành phần và có nhiều vai trò quan trọng trong cơ thể.
Mỡ động vật, đặc biệt là mỡ gan cá và một số động vật sống ở biển có nhiều vitamin A, vitamin D và acid arachidonic.Chất béo có hương vị thơm, tạo cảm giác ăn ngon miệng.Khuynh hướng thay thế hoàn toàn mỡ động vật bằng dầu thực vật là không hợp lý, không cân đối trong khẩu phần ăn hàng ngày.

Vai trò của chất béo
Lipid (chất béo) là một trong 4 thành phần thiết yếu của bữa ăn, là nguồn cung cấp năng lượng (với đậm độ cao gấp 2 lần so với protein và glucid, khoảng 9 Kcal/ 1 gam lipid) và các acid béo, đồng thời là dung môi chất béo (như các vitamin A, D, E, K). Giá trị sinh học của các chất dinh dưỡng tan trong dầu phụ thuộc vào khả năng hấp thụ lipid của cơ thể.

Chất béo giúp cho sự phát triển sớm về trí tuệ và thể lực của trẻ vì giữ vai trò quan trọng đối với hệ thần kinh trung ương.Tiêu thụ chất béo quá thấp trong khẩu phần ăn hàng ngày ảnh hưởng đến chức phận của nhiều cơ quan tổ chức trong cơ thể, đặc biệt là não bộ và thần kinh ở trẻ em và trẻ nhỏ.Hậu quả là trẻ chậm tăng trưởng và thiếu dinh dưỡng protein năng lượng.Tiêu thụ quá nhiều chất béo có thể dẫn đến thừa cân - béo phì, có liên quan đến bệnh mạn tính không lây và hội chứng rối loạn chuyển hóa. Vì vậy cần sử dụng chất béo theo nhu cầu của cơ thể, với tỷ lệ hợp lý giữa các loại chất béo. Chất béo có hương vị thơm, tạo cảm giác ăn ngon miệng.
Lợi ích của dầu ăn
Dầu ăn là chất béo thực vật, chứa nhiều acid béo chưa bão hòa tốt cho chuyển hóa, ít hoặc không có cholesterol hơn là mỡ động vật. Giống như mỡ, dầu ăn có nhiều loại: dầu lạc, dầu vừng, dầu olive, dầu đậu tương, dầu dừa, dầu cọ,…Những loại dầu này đều chứa acid béo chưa bão hòa nhưng tỷ lệ các loại chất béo và thành phần các chất béo không giống nhau giữa các loại dầu.Vì thế tác dụng đối với cơ thể, nhiệt độ sôi, độ phân hủy, sự kết hợp với các chất khác trong thức ăn của chúng ta cũng khác nhau.

Các loại dầu hạt như: dầu lạc, dầu hạt cải, dầu hướng dương, dầu vừng, dầu olive, dầu đậu tương có nhiều acid béo không no, không có cholesterol giúp phòng ngừa bệnh mạch vành và xơ vữa động mạch, ngoài ra còn ngăn ngừa não hóa của da, thúc đẩy tế bào não phát triển. Dầu quả như dầu cọ, dầu dừa chứa nhiều acid béo bão hòa nhất nên không được đánh giá cao trong việc sử dụng làm thực phẩm trong bữa ăn. Tuy vậy, nó lại có tác dụng như một kháng sinh tự nhiên kháng lại một số virus, vi khuẩn và nấm.

Sử dụng dầu ăn như thế nào để có lợi cho sức khỏe
Một điều rất quan trọng là khi sử dụng dầu ăn phải chú ý cho dầu vào thực phẩm ở thời điểm nào.Khi sơ chế nguyên liệu, nên cho gia vị vào trước rồi mới thêm dầu ăn, như vậy mới đảm bảo cho gia vị ngấm vào thức ăn.Có thể cho dầu ăn khi thức ăn đã chín, bắc ra khỏi bếp để dậy mùi thức ăn hơn. Tùy theo kinh nghiệm và thói quen nấu ăn, các loại dầu có thể được sử dụng đặc thù với từng loại thực phẩm. Ví dụ: các loại thịt nên dùng dầu lạc khử được mùi hôi của thịt, dầu vừng nên sử dụng với các món có mùi tanh, chỉ dùng khi thức ăn đã nấu chín; các loại sa lát, gỏi nên dùng với dầu olive để trộn.
Các loại dầu mè, dầu nành, dầu olive cung cấp các acid béo thiết yếu, nên dùng để trộn với dấm, sa lát, chế biến thức ăn cho trẻ, nấu canh, ướp thịt cá. Các loại dầu dừa, dầu đậu phộng (lạc) dùng để chiên xào ở nhiệt độ cao như rán chả, giò, cá, khoai tây.Trong quá trình sử dụng, nên để dầu chỗ mát, không để nơi quá nóng, tránh ánh sáng.Nên đậy kín chai sau mỗi lần dùng. Dầu sử dụng chiên, xào còn dư nên bỏ đi không dùng đi dùng lại nhiều lần (chỉ dùng tối đa 2 lần) vì trong quá trình chịu tác động của nhiệt độ cao sinh ra chất béo thể trans và một số thành phần độc hại khác không tốt cho cơ thể. Dầu đã mở nắp chỉ nên sử dụng trong một tháng.

Dầu ăn (loại dầu hạt) nếu đảm bảo vệ sinh sử dụng dưới dạng trộn xa lát là tốt nhất vì với hình thức chế biến này, các acid béo chưa no có nhiều mạch kép trong cấu trúc được bảo toàn nguyên vẹn.

Khi xào nấu thức ăn, để đảm bảo ngon miệng, vừa giữ được chất lượng của chất béo, chúng ta nên phối hợp như sau: phi một ít hành hoặc tỏi với mỡ rồi cho thực phẩm vào xào, nêm mắm muối vừa đủ, nấu chín, sau đó thêm 1 - 2 thìa dầu ăn trộn đều rồi bắc ra.

Dầu, mỡ dưới tác dụng của nhiệt độ cao sẽ tạo ra chất béo thể trans và các chất độc hại có nguy cơ gây ung thư. Do vậy, chất béo đã qua sử dụng (rán, quay) nên bỏ đi, không tái sử dụng.

Sử dụng chất béo như thế nào cho hợp lý
Hiện nay, xu hướng người dân sử dụng dầu ăn thay mỡ, vì dầu ăn có acid béo không no có hoạt tính sinh học cao.Đồng thời cũng có nhiều người băn khoăn trong việc sử dụng chất béo cho việc chế biến thức ăn hàng ngày.Chất béo có thành phần chính là glyxerol và các acid béo.Cần sử dụng phối hợp cân đối giữa chất béo động vật và chất béo thực vật trong bữa ăn hàng ngày. Nhìn chung, trong dầu thực vật có nhiều acid béo không no cần thiết, nhưng do cấu trúc có các liên kết kép nên trong quá trình chuyển hóa sẽ tạo ra các sản phẩm trung gian như aldehyt, peroxyt là những chất có hại cho cơ thể.

Mặt khác trong dầu thực vật lại có rất ít hoặc không có a xít arachidonic là acid béo không no cần thiết có 3 liên kết kép trong thành phần và có nhiều vai trò quan trọng trong cơ thể. Mỡ động vật, đặc biệt là mỡ gan cá và một số động vật sống ở biển có nhiều vitamin A, vitamin D và acid arachidonic.Khuynh hướng thay thế hoàn toàn mỡ động vật bằng dầu thực vật là không hợp lý, không cân đối trong khẩu phần.

Thực phẩm nguồn gốc động vật, thực vật và cá chứa nhiều loại lipid khác nhau với chất lượng khác nhau.Cần thiết phải có sự cân bằng các loại thực phẩm trong khẩu phần để đảm bảo nhu cầu lipid đối với cơ thể cả về số lượng và chất lượng lượng.Việc sử dụng mỡ và dầu ăn với liều lượng hợp lý, phù hợp với từng lứa tuổi và tình trạng sinh lý nó mang lại những lợi ích nhất định cho sức khỏe của người dùng. Nhu cầu về lipid và tỷ lệ cân đối giữa chất béo động vật với chất béo thực vật theo khuyến nghị dùng cho người Việt Nam tùy theo lứa tuổi như sau.
Nhu cầu khuyến nghị lipid (chất béo) cho người Việt Nam

Với trẻ dưới 6 tháng tuổi, bú mẹ hoàn toàn, 40 - 60% năng lượng ăn vào là do chất béo của sữa mẹ cung cấp. Trẻ từ 6 tháng đến 2 tuổi năng lượng do lipid cung cấp là 30 - 40 %, trẻ từ 3 - 5 tuổi năng lượng do chất béo cung cấp là 25 - 35%, trẻ từ 6 - 19 tuổi năng lượng từ chất béo cung cấp là 20 - 30%.

Về cơ cấu lipid trong khẩu phần trẻ em: Do cơ thể trẻ đang phát triển nhanh, rất cần acid arachidonic, một acid béo không no có nhiều trong mỡ động vật, do đó tỷ lệ cân đối giữa lipid động vật và lipid thực vật được khuyến nghị là 70% và 30%. Ngay cả khi thức ăn bổ sung của trẻ có thịt, cá, trứng vốn đã có một lượng lipid động vật nhất định rồi nhưng vẫn chưa đủ nhu cầu về lipid cho lứa tuổi này, vì thế khi chế biến vẫn cần phải cho thêm vào khẩu phần của trẻ cả dầu thực vật và mỡ động vật theo tỷ lệ một bữa dầu, một bữa mỡ.

Với người trưởng thành, để giúp cơ thể tăng cường hấp thu các loại vitamin tan trong chất béo (vitamin A, D, E, K), đồng thời chủ động phòng ngừa thừa cân - béo phì, năng lượng do lipid cung cấp dao động trong khoảng 20 - 25% năng lượng tổng số, không nên vượt quá 25% năng lượng tổng số. Riêng phụ nữ mang thai hoặc đang nuôi con bú, nhu cầu lipid được khuyến nghị cao hơn là 25 - 30% năng lượng tổng số. Trong đó tỷ lệ lipid động vật/ lipid tổng số với người trưởng thành không nên vượt quá 60%.

Thực hiện ăn đa dạng, phối hợp nhiều loại thực phẩm ở tỷ lệ cân đối, hợp lý trong bữa ăn hàng ngày góp phần nâng cao sức khỏe, trí tuệ và phòng tránh thừa cân-béo phì, các bệnh mạn tính không lây.

03/07/2019

Một bé trai 6 tuổi vừa bị ung thư dạ dày, nguyên nhân nằm ở thói quen ăn uống mà bất kỳ gia đình nào cũng có thể mắc phải.

Điểm danh 5 loại đồ uống kìm hãm sự phát triển chiều cao bạn cần tránhCó nhiều loại thức uống vô cùng quen thuộc hàng ng...
26/06/2019

Điểm danh 5 loại đồ uống kìm hãm sự phát triển chiều cao bạn cần tránh
Có nhiều loại thức uống vô cùng quen thuộc hàng ngày đang kìm hãm sự phát triển chiều cao mà bạn không hề biết.
Để đạt được một chiều cao lý tưởng trong tương lai, bạn cần áp dụng chế độ ăn uống khoa học, bổ sung đầy đủ các chất dinh dưỡng. Đồng thời chăm chỉ tập thể dục còn giúp cho cơ thể khỏe mạnh và phát triển chiều cao một cách tự nhiên. Bạn nên tham gia chơi các môn thể dục rất có có ích cho việc kéo giãn cơ thể tốt nhất cho chiều cao như: bơi lội, đạp xe, leo xà, đi bộ, bóng đá, bóng rổ, nhảy dây…

22/06/2019

Vi chất dinh dưỡng (VCDD) là các chất mà cơ thể chúng ta chỉ cần với một lượng rất nhỏ nhưng nếu thiếu sẽ gây nên những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe.
Các VCDD tham gia việc xây dựng nên các tế bào, các mô, vào các hoạt động hô hấp, chuyển hóa, bài tiết của tế bào, xây dựng nên hệ thống miễn dịch của cơ thể, tham gia nhiều cơ chế hoạt động của nhiều cơ quan trong cơ thể, duy trì sự cân bằng của hệ thống nội môi, giúp phục hồi các tế bào, các mô tổn thương, là thành phần chủ yếu để tạo ra các hormon, các dịch tiêu hóa... VCDD rất cần thiết cho sự phát triển trí tuệ và thể chất của trẻ.

Tuy cơ thể chỉ cần với một lượng nhỏ VCDD nhưng khi thiếu những vi chất này sẽ gây nhiều hậu quả trầm trọng. Thiếu VCDD được xem là “nạn đói tiềm ẩn” ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi, đồng thời là nguy cơ đối với sức khỏe của trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ tuổi sinh đẻ. Thiếu VCDD sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, trí tuệ, khả năng sinh sản và lao động của người lớn, cản trở sự tăng trưởng và phát triển toàn diện của trẻ em. Thiếu VCDD không chỉ gây ra một số bệnh đặc hiệu như bệnh khô mắt, mù lòa do thiếu vitamin A, bệnh thiếu máu do thiếu sắt, bệnh bướu cổ và đần độn do thiếu iốt, bệnh còi xương ở trẻ em, loãng xương ở người lớn tuổi mà còn là những yếu tố nguy cơ làm nặng thêm tình trạng nhiễm trùng và bệnh mạn tính, tác động đáng kể đến tình hình bệnh tật, tử vong và chất lượng cuộc sống.

Các VCDD thiết yếu
Có khoảng 90 các VCDD khác nhau cần thiết cho cơ thể, bao gồm các vitamin tan trong nước như: nhóm B, C; các vitamin tan trong chất béo như: A, D, E, K và các chất khoáng sắt, kẽm, iode, đồng, mangan, magiê...

Vitamin A: Cần cho sự tăng trưởng, giúp sáng mắt, tăng cường hệ thống miễn dịch giúp phòng ngừa các bệnh nhiễm trùng. Khi thiếu vitamin A sẽ gây quáng gà, khô mắt, loét giác mạc gây mù lòa, chậm tăng trưởng, dễ bị các bệnh nhiễm trùng như: viêm hô hấp, tiêu chảy, nhiễm trùng da.
Nguyên nhân thiếu vitamin A là do chế độ ăn nghèo vitamin A và caroten (caroten là chất khi vào cơ thể sẽ chuyển hóa thành vitamin A). Hoặc bữa ăn đủ vitamin A nhưng lại thiếu đạm và dầu mỡ cũng làm giảm khả năng hấp thu và chuyển hóa vitamin A. Ngoài ra, thiếu vitamin A còn thường gặp ở trẻ nhỏ không được bú sữa mẹ, trẻ suy dinh dưỡng, trẻ bị nhiễm trùng đặc biệt là trẻ bị sởi, viêm đường hô hấp, tiêu chảy, nhiễm giun...

Để phòng thiếu vitamin A, cần chú ý ăn uống đầy đủ các thức ăn giàu vitamin A, caroten, đạm, dầu mỡ. Vitamin A và caroten có nhiều trong các thực phẩm như: gan, trứng, sữa, cá, rau lá xanh thẫm, các loại quả có màu vàng, da cam.

Bổ sung vitamin A liều cao dự phòng cho trẻ dưới 6 tháng tuổi không được bú mẹ; bà mẹ trong vòng 1 tháng sau sinh; trẻ dưới 5 tuổi mắc các bệnh tiêu chảy, nhiễm trùng, suy dinh dưỡng; trẻ 6-36 tháng tuổi theo hướng dẫn của cán bộ y tế. Khuyến khích các bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ ít nhất đến 24 tháng tuổi; thực hiện tiêm chủng đầy đủ, đúng lịch cho trẻ theo hướng dẫn của cán bộ y tế.

Sắt: Chất quan trọng tham gia quá trình tạo máu và một phần cấu trúc của bộ não, cho nên khi trẻ bị thiếu sắt sẽ dẫn đến thiếu máu do thiếu sắt làm giảm phát triển thể chất, trí tuệ, giảm sức đề kháng của cơ thể đối với nhiễm trùng và giảm khả năng hoạt động thể lực. Sắt có nhiều trong gan, mề gà, lòng đỏ trứng gà, tim heo, mộc nhĩ, nấm hương.

Kẽm: Thành phần của hơn 300 enzym tham gia các hoạt động của cơ thể: tăng hấp thu, tăng tổng hợp chất đạm, tăng cảm giác ngon miệng, tăng cường hệ thống miễn dịch, giúp trẻ tăng trưởng chiều cao. Khi thiếu kẽm sẽ làm cho trẻ bị biếng ăn, dễ bị nhiễm trùng. Kẽm có nhiều trong các loại thực phẩm: sò, củ cải, đậu Hà Lan, đậu nành, lòng đỏ trứng gà.

Iod: Chất cần thiết để tuyến giáp tổng hợp hormon giáp, giúp cho sự tăng trưởng của cơ thể, sự hình thành và phát triển của não. Trẻ thiếu iod từ trong bào thai sẽ bị tổn thương não nặng nề như đần độn và bị các khuyết tật thần kinh khác. Trẻ thiếu iod ở giai đoạn não phát triển nhanh, đặc biệt là dưới 2 tuổi, cũng gây hậu quả nặng nề. Trẻ em tuổi học đường nếu bị thiếu iod sẽ giảm chỉ số thông minh, thành tích học tập giảm.

Vitamin C: Chất có tác dụng giúp cho cơ thể chống ôxy hóa rất tốt, nó tham gia nhiều hoạt động sống quan trọng của cơ thể như quá trình hình thành collagen, kích thích ruột non hấp thụ sắt. Nếu thiếu vitamin C sẽ dẫn đến hiện tượng sưng nướu răng, dễ chảy máu, dễ mắc bệnh, trẻ mệt mỏi khi hoạt động. Vitamin C có nhiều trong: cam, quýt, bưởi, ổi chín, rau cải, rau muống, rau ngót, cà chua...

Vitamin D và canxi: Có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành, phát triển xương và răng. Thiếu vitamin D và canxi sẽ làm cho trẻ chậm mọc răng, ngủ không yên giấc, hay vặn mình, ra nhiều mồ hôi trộm, nhất là mồ hôi đầu. Canxi có nhiều trong: tôm, cua, trai, ốc. Vitamin D được cung cấp chủ yếu qua việc tiếp xúc với ánh nắng và các thực phẩm như: dầu cá, trứng, gan.

Vitamin nhóm B: Có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa năng lượng, tạo máu và hỗ trợ hệ thần kinh khỏe mạnh. Khi thiếu vitamin nhóm B sẽ dẫn đến phù, da tay chân nóng và dễ viêm, rối loạn tiêu hóa, chán ăn, tinh thần không phấn chấn. Vitamin nhóm B có nhiều trong gạo lứt, các loại đậu, thịt gà, rau lá xanh thẫm, chuối, sữa, pho mát.

Những kháng sinh mới thường được khuyến cáo chỉ dùng trong bệnh viện hoặc khi có sự chỉ định cân nhắc của bác sĩ điều tr...
15/06/2019

Những kháng sinh mới thường được khuyến cáo chỉ dùng trong bệnh viện hoặc khi có sự chỉ định cân nhắc của bác sĩ điều trị. Đó là thuốc quý có tính dự trữ, nếu sử dụng bừa bãi chắc chắn trong thời gian ngắn sẽ bị lờn, bị đề kháng.
Có lần, một bạn trẻ đã tìm đến tôi để hỏi ý kiến xem sau khi lén lút đi “giải quyết sinh lý”, nghi ngờ bị mắc bệnh, có thể đến nhà thuốc mua loại thuốc kháng sinh “xịn” nhất về dùng để tự chữa bệnh. Tôi vội vàng giải thích, đại khái: “Hiện nay ở ta đang có tình trạng rất đáng lo ngại là có một số người bị các bệnh lây qua đường tình dục (trước đây gọi là bệnh hoa liễu như giang mai, lậu, mồng gà. hột xoài…) nhưng không chịu đến bác sĩ chuyên khoa để được chẩn đoán, hướng dẫn điều trị mà lại nghe mách bảo tìm mua loại kháng sinh mới nhất như các loại kháng sinh Cephalosporin thế hệ 3, 4, hoặc các Fluoroquinolon thế hệ 2, 3… để tự chữa bệnh, làm như thế không chỉ hại cho bản thân bởi vì dùng thuốc không đúng bệnh sẽ nặng thêm mà vô tình có thể làm hại cho cộng đồng. Những thuốc kháng sinh mới nhất được khuyến cáo chỉ dùng trong bệnh viện khi được bác sĩ điều trị chỉ định, hướng dẫn và theo dõi sử dụng, vì đó là thuốc rất quý có tính dự trữ, nếu sử dụng bừa bãi chắc chắn trong thời gian ngắn sẽ bị đề kháng”. Lúc đầu nghe tôi nói, anh bạn trẻ có vẻ hiểu nhưng sau có vẻ ngơ ngẩn với hai chữ “đề kháng”. Tôi đã có dùng chữ văn vẻ nôm na hơn để giải thích cho anh bạn trẻ thế nào là kháng sinh bị “đề kháng”. Anh bạn trẻ sau khi nghe buột miệng: “A, ý thầy muốn nói lờn thuốc !” (chữ “lờn thuốc” là chữ người Nam Bộ thường dùng).

Một lần khác, một vị cao tuổi đến tìm tôi để hỏi ý kiến xem có thể tự sử dụng một lọai thuốc an thần gây ngủ khá thông dụng là SEDUXEN [diazepam] để chữa chứng mất ngủ. Tôi vội vàng trình bày tác hại của việc người bệnh tự ý dùng bừa bãi thuốc loại này, trong đó có tác hại rất nghiêm trọng là thuốc làm cho bị nghiện. Người đã bị nghiện sẽ phải tiếp tục dùng thuốc, không bỏ được thuốc và bị “dung nạp thuốc”. Tôi thấy mình hớ vì ông cụ không hiểu “dung nạp thuốc” là gì, vì vậy, tôi dùng lời lẽ đời thường hơn để giải thích với cụ. Khi ấy, cụ đã buột miệng: “A, ý của dược sĩ muốn nó tới “lờn thuốc” ấy mà !”.
Như vậy chữ” lờn thuốc” mà nhiều người thường hay sử dụng hiện nay có đến hai nghĩa.
Trước hết, đối với việc sử dụng thuốc là kháng sinh, “lờn thuốc” có nghĩa là vi khuẩn gây bệnh không còn nhạy cảm, có khả năng chống lại tác dụng của thuốc để đưa đến hậu quả là kháng sinh mà người bệnh sử dụng không mảy may gây hại đối với vi khuẩn. “Lờn thuốc” ở đây là sự rút gọn của “vi khuẩn lờn thuốc kháng sinh”.
Thiết nghĩ, ta cũng nên biết qua vi khuẩn lờn thuốc kháng sinh như thế nào để hiểu vì sao có lời khuyên phải dùng kháng sinh đúng thuốc, đúng liều và đủ thời gian. Trong điều trị, ngay từ đầu phải dùng loại kháng sinh có tác dụng (nên lưu ý có kháng sinh có tác dụng hiệu quả đối với loại vi khuẩn này nhưng không hiệu quả đối với lọai vi khuẩn khác) tức phải dùng đúng thuốc. Ngay từ đầu phải sử dụng ngay liều tấn công tức là liều mạnh để vi khuẩn bị tiêu diệt ngay không kịp tồn tại dưới dạng chai lì. Sau đó, duy trì liều có hiệu quả trong suốt thời gian điều trị, bằng cách dùng nhiều lần thuốc trong ngày và dùng trong nhiều ngày. Nên đặc biệt lưu ý, thời gian dùng kháng sinh thông thường không dưới 5 ngày. Có loại bệnh nhiễm khuẩn phải dùng kháng sinh cả tháng, riêng bệnh lao phải dùng thuốc từ 6 tháng trở lên. Tức là phải dùng kháng sinh đúng liều và đủ thời gian thì mới mong khỏi bệnh. Vấn đề “lờn thuốc kháng sinh” đang là vấn nạn gây tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng. Trong chữa trị bệnh lao ở nước ta hiện nay đang phải đối phó với “lao đa kháng thuốc” (tức bệnh lao mà vi khuẩn đã đề kháng với nhiều thuốc chống lao thuộc hàng đầu trong công tác chữa trị) và “lao siêu kháng thuốc” (tức bệnh lao mà vi khuẩn đã đề kháng với không chỉ các thuốc thuộc lọai hàng đầu mà cả với thuốc dự trữ hạng 2).

Trên nguyên tắc, nếu vi khuẩn còn nhạy cảm với kháng sinh cổ điển, thông dụng thì sử dụng kháng sinh loại này và tránh dùng kháng sinh loại mới. Không nên nghe lời mách bảo tìm mua các loại kháng sinh mới nhất (các fluoroquinolon, các cephalosporin thế hệ thứ ba, thứ tư) để tự chữa bệnh mà lại dùng sai. Những kháng sinh mới thường được khuyến cáo chỉ dùng trong bệnh viện hoặc khi có sự chỉ định cân nhắc của bác sĩ điều trị. Đó là thuốc quý có tính dự trữ, nếu sử dụng bừa bãi chắc chắn trong thời gian ngắn sẽ bị lờn, bị đề kháng. Như carbamenem là loại kháng sinh dự trữ rất quý (ở ta ngay các bệnh viện lớn cũng rất ít khi phải dùng xem như để dành, để khi hữu sự trong thế chẳng đặng dừng mới dùng) thế mà nay đã bị đề kháng.

Nghĩa thứ hai của “lờn thuốc” mà bà con ta cũng thường hay sử dụng là tình trạng cơ thể ta do dùng một thứ thuốc lập đi lập lại nhiều lần nếu dùng liều lượng cũ sẽ thấy thuốc không có tác dụng và phải tăng liều lượng mới thấy thuốc có “ép phê”. Lờn thuốc là một đặc tính của thuốc gây nghiện, trong đó có thuốc ngủ, thuốc an thần, thuốc hướng tâm thần nói chung, kể cả ma túy. Có nhiều người quen dùng thuốc an thần gây ngủ (như Seduxen) càng ngày càng tăng liều dùng thì mới ngủ được. Nhưng ngay một số thuốc thông thường như các thuốc trị đau thấp khớp, có nhiều người quen dùng cứ thấy hiệu quả của thuốc giảm dần theo thời gian. Trong lĩnh vực dược, người ta phải luôn luôn tìm ra thuốc mới, một phần để thay thế thuốc cũ bị lờn là vì thế.

Đối với người dùng thuốc, để hạn chế cả hai sự lờn thuốc kể trên, chỉ có cách là sử dụng thuốc khi thật cần thiết, theo sự hướng dẫn của thầy thuốc, không lạm dụng và không sử dụng bừa bãi thuốc.

PGS.TS. NGUYỄN HỮU ĐỨC

Suckhoedoisong.vn - Hiện nay, Loãng xương đang được coi là một vấn đề rất lớn của sức khỏe cộng đồng, đang gia tăng nhan...
29/05/2019

Suckhoedoisong.vn - Hiện nay, Loãng xương đang được coi là một vấn đề rất lớn của sức khỏe cộng đồng, đang gia tăng nhanh, không những liên quan đến tuổi, giới, di truyền, dinh dưỡng, lối sống, sinh hoạt, tiền sử gia đình... mà còn liên quan tới nhiều loại thuốc và các bệnh mạn tính khác. bệnh cũng là yếu tố thúc đẩy và làm nặng thêm các bệnh lý khác ở người cao tuổi, nhưng lại chưa được quan tâm đúng mức.
Loãng xương là một bệnh lý ảnh hưởng đến 1 trong 3 phụ nữ (33%) và 1 trong 5 (20%) nam giới trên 50 tuổi trên toàn thế giới. Hệ quả nghiêm trọng nhất của bệnh loãng xương là gãy xương. Gãy xương là một gánh nặng về kinh tế xã hội cho mọi quốc gia, đặc biệt là nước ta, vì người bị gãy xương do loãng xương có nguy cơ tử vong cao và gia tăng nguy cơ mắc các bệnh khác. Gần 25% bệnh nhân bị gãy xương đùi sẽ tử vong trong vòng 12 tháng sau biến cố gãy xương.

Vì vậy biến cố gãy xương do loãng xương được coi là nặng nề tương đương với đột quy và nhồi máu cơ tim trong các bệnh lý tim mạch. Ngoài ra, sau gãy xương người bệnh còn phải chịu đau đớn kéo dài, giảm chất lượng sống, mất khả năng lao động và vận động, sống phụ thuộc và tàn phế, chi phí điều trị loãng xương vì thế càng ngày càng tăng cao, gây nên gánh nặng kinh tế lớn cho gia đình và xã hội.
Với dân số hơn 90 triệu người, Việt Nam đang là 1 trong 15 quốc gia hàng đầu thế giới về dân số. Tuy nhiên với mức sống và thu nhập không cao, kinh tế phát triển còn chậm, sự già hóa dân số lại diễn ra quá nhanh, chất lượng của tuổi thọ chưa cao…, các bệnh liên quan đến tuổi như Loãng xương đã trở thành thách thức lớn cho xã hội.
Tam giác dự phòng loãng xương

Loãng xương là bệnh có thể phòng ngừa hiệu quả bằng một chế độ ăn uống đầy đủ dưỡng chất, kết hợp với chế độ sinh hoạt, vận động hợp lý ngay từ khi còn trẻ và duy trì suốt cuộc đời.

Canxi là một khoáng chất quan trọng, thành phần chính cấu thành bộ xương và hàm răng của con người (99% canxi của cơ thể tập trung ở xương và răng), nhưng cơ thể không tự tổng hợp được mà bắt buộc phải được cung cấp từ chế độ ăn hàng ngày của mỗi người. Thiếu canxi là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng thiếu xương và loãng xương. Đặc biệt từ sau tuổi 30, mật độ xương bắt đầu giảm dần do quá trình hủy xương dần dần vượt trội hơn quá trình tạo xương, nếu cơ thể không được bổ sung lượng canxi thích hợp sẽ không bù đắp được khối lượng xương đã mất đi, dẫn đến quá trình loãng xương xảy ra sớm và trầm trọng hơn.

Nhu cầu canxi hàng ngày của cơ thể dao động từ 210mg đến 1.500mg, thay đổi theo lứa tuổi và phụ thuộc quá trình phát triển, chu kỳ sống của xương, sự hấp thụ canxi của mỗi người.
Tuy nhiên, theo khuyến cáo từ Viện Dinh dưỡng Quốc gia, lượng canxi từ bữa ăn hàng ngày của người Việt Nam trung bình là 500mg, ước tính chỉ cung cấp khoảng 50% nhu cầu canxi ở người trưởng thành. Do đó, trước hết chúng ta cần tận dụng tối đa canxi trong các loại thực phẩm giầu canxi, nếu chưa đủ sẽ bổ sung thêm bằng thuốc:

- Tăng cường sử dụng sữa, các chế phẩm từ sữa, các thức ăn giàu canxi như tôm, cua, cá, các loại rau củ có màu xanh đậm (rau cải xanh, rau ngót, rau mồng tơi, rau đay, bông cải xanh, rau bó xôi, các loại rau mầm, trái ớt ngọt, cam tươi, đu đủ, dâu tây, kiwi…), thủy hải sản (cá, tôm, cua, ốc…). Một ly sữa tươi thông thường chứa khoảng 250mg canxi.
- Đặc biệt, trong những giai đoạn mà cơ thể đòi hỏi một lương canxi cao (phụ nữ mang thai và cho con bú, phụ nữ trong độ tuổi mãn kinh, người cao tuổi…) khi chế độ ăn hàng ngày không đáp ứng đủ, các viên canxi, ống canxi dược phẩm sẽ là một nguồn bổ sung quan trọng.

- Bên cạnh đó, để hấp thu canxi tối ưu, chúng ta cần chú trọng bổ sung vitamin D hàng ngày bằng việc phơi nắng trực tiếp 15 phút vài lần trong tuần, tốt nhất là vào buổi sáng sớm (6g30 - 7g30) sẽ là cách bổ sung vitamin D hiệu quả và kinh tế nhất bởi vì nguồn vitamin D dồi dào nhất là từ ánh sáng mặt trời.

Thuốc điều trị loãng xương

Loãng xương là một bệnh mạn tính, tiến triển và liên quan đến tuổi, một liệu trình điều trị loãng xương thường kéo dài 3 - 5 năm, thậm chí tới 10 năm để có được hiệu quả ngăn ngừa hay làm giảm nguy cơ gãy xương. Hiện nay các loại thuốc chủ yếu để điều trị loãng xương đã có mặt tại Việt Nam và đã được bảo hiểm y tế chi trả. Các thuốc này đều có bằng chứng về hiệu quả và an toàn trong điều trị các thể loại loãng xương chính như loãng xương sau mãn kinh, loãng xương người già, loãng xương nam giới, loãng xương do corticosteroid, loãng xương thứ phát… Để việc điều trị loãng xương hiệu quả người bệnh cần tuân thủ nghiêm túc chế độ điều trị, bao gồm thuốc điều trị loãng xương, canxi, vitamin D (đủ theo nhu cầu hàng ngày) và tập vận động đều đặn.

Một số chế phẩm canxi và vitamin D cũng đang nằm trong danh sách chi trả của bảo hiểm y tế. Từ các thông tin về nhu cầu hàng ngày, nghiên cứu về tình trạng thiếu canxi và vitamin D trong khẩu phần ăn hàng ngày, các kiến thức khoa học đến các lĩnh vực liên quan (tim mạch, chuyển hóa, thận mạn tính…), các bác sĩ sẽ tư vấn cho bệnh nhân và cộng đồng cách bổ sung canxi và vitamin D như thế nào để đảm bảo hiệu quả và an toàn.
Vì chế độ ăn của người Việt chưa đáp ứng đủ nhu cầu canxi của cơ thể, chúng ta có thể bổ sung khoảng 600 - 1.000mg canxi dược phẩm mỗi ngày. Bên cạnh đó, ngoài việc tham gia duy trì sức khỏe xương, phòng chống té ngã và điều trị loãng xương, các nghiên cứu mới đây khẳng định vai trò quan trọng của vitamin D trong việc duy trì sức khỏe nói chung. Thiếu hụt vitamin D đang là vấn đề y tế toàn cầu, làm gia tăng nhiều bệnh mạn tính nguy hiểm và ảnh hưởng đến thai kỳ. Bổ sung 1.000 - 1.200UI vitamin D hàng ngày giúp phòng ngừa nhiều bệnh: ung thư, tim mạch, tăng huyết áp, tai biến mạch máu não, đái tháo đường, vẩy nến, viêm đường ruột, viêm khớp, viêm gan, nhiễm trùng, lao phổi, alzheimer…

Loãng xương cũng là một dạng bệnh nội tiết

Loãng xương là một bệnh rối loạn chuyển hóa xương nên thực chất đây là bệnh nội tiết. Hơn thế nữa, bệnh lại mang tính cộng đồng với tỉ lệ mắc bệnh cao, diễn tiến âm lặng nhưng gây hậu quả nặng nề cho người bệnh, gia đình và xã hội. Bệnh cần được điều trị sớm, liên tục và lâu dài để ngăn ngừa hay giảm nguy cơ gãy xương cũng giống như việc điều trị tăng huyết áp để ngăn ngừa đột quỵ hay điều trị bệnh mạch vành để ngăn ngừa nhồi máu cơ tim, vì gánh nặng kinh tế xã hội và nguy cơ tử vong do gãy xương, đột quỵ hay nhồi máu cơ tim tương đương nhau.

🤔🤔Để bệnh phình đĩa đệm không chuyển thành thoát vị đĩa đệm----------------------------------------------------------Phì...
09/04/2019

🤔🤔Để bệnh phình đĩa đệm không chuyển thành thoát vị đĩa đệm
----------------------------------------------------------
Phình đĩa đệm hay còn gọi là phồng đĩa đệm, lồi đĩa đệm. Hiện tượng này xảy ra do khối nhân nhầy trung tâm đĩa đệm thoát ra ngoài nhưng chưa hoàn toàn nên ít chèn ép rễ thần kinh, mới chỉ phồng ra sau, các vòng sợi bị suy yếu. Người bị bệnh phồng đĩa đệm thường có cảm giác đau nhức lưng, đau lan xuống chân và đôi khi tay chân bị tê nhưng chỉ ở thể nhẹ. Tuy nhiên, người bệnh cần được cải thiện sớm để bệnh phình đĩa đệm không chuyển thành thoát vị đĩa đệm.

Lo lắng, hoang mang là tâm trạng mà chị N.T.Q (32 tuổi, Bình Dương) gặp phải khi được chẩn đoán bị phồng đĩa đệm l4-l5. Chị bị đau lưng suốt một thời gian dài nhưng lại nghĩ đây là chứng đau thông thường. Đến khi có biểu hiện tê bì tay chân, đau mỏi lưng, đau nhói xuống chân chị mới đi khám và được chẩn đoán phồng đĩa đệm. Chị băn khoăn không biết bệnh phồng đĩa đệm là gì, có phải là thoát vị đĩa đệm không?

Theo chuyên gia, phình đĩa đệm là một tình trạng của thoái hóa cột sống mà khi đó nhân đĩa đệm bị lồi ra ngoài. Đây là thể nhẹ của thoát vị đĩa đệm, người bệnh ít có cảm giác đau và hạn chế vận động như thoát vị đĩa đệm. Tuy nhiên, nếu không được cải thiện kịp thời, cộng với sự tác động của quá trình lão hoá, hoặc mang vác nặng, chấn thương,… thì phồng đĩa đệm có thể dẫn tới thoát vị đĩa đệm. Lúc này, nhân nhầy bên trong lệch khỏi vị trí trung tâm, thậm chí thoát ra ngoài, chèn ép trực tiếp lên tủy sống và các dây thần kinh, gây đau lưng, tê mỏi, teo cơ, giảm khả năng vận động, nặng hơn có thể gây liệt.

Để cải thiện bệnh phồng đĩa đệm phải xác định vị trí đĩa đệm bị tổn thương, người bệnh cần được thăm khám, chụp cộng hưởng từ MRI hoặc CiTi. Bệnh phình đĩa đệm cải thiện chủ yếu là dùng thuốc giảm đau, kết hợp tập vật lý trị liệu, hạn chế mang vác vật nặng, giữ gìn tư thế cột sống đúng trong sinh hoạt hàng ngày, hoặc làm các động tác có thể gây chấn thương cột sống, có chế độ lao động, sinh hoạt hợp lý để tránh những cơn đau tái phát hoặc bệnh tiến triển sang thoát vị đĩa đệm. Theo đó, làm chậm quá trình thoái hóa cột sống là giải pháp tối ưu giúp kiểm soát bệnh phồng đĩa đệm.

6 quy tắc vàng của Nhật Bản dành cho những ai muốn khỏe mạnh hơn và tránh được bệnh tậtÍt ai biết rằng, Nishi Katsuzo si...
09/04/2019

6 quy tắc vàng của Nhật Bản dành cho những ai muốn khỏe mạnh hơn và tránh được bệnh tật

Ít ai biết rằng, Nishi Katsuzo sinh ra là một đứa trẻ yếu đuối và bệnh tật, các chẩn đoán của bác sĩ không để lại cho ông một tia hy vọng nào khi họ thẳng thừng thông báo rằng chưa chắc ông đã sống nổi cho đến trước 20 tuổi. Không tin vào bác sĩ, Katsuzo không còn cách nào khác là tìm một con đường mới để chữa lành bệnh. Vậy mà kỳ diệu thay, ông đã tìm ra hệ thống giúp đẩy lùi bệnh tật và khỏe mạnh mà không cần nhờ đến bác sĩ và thuốc thang.

Để cải thiện sức khỏe của mình, cha mẹ đưa ông đến một tu viện Phật giáo. Ông đã dành 3 năm ở đó học tập các kỹ thuật thiền và đấu kiếm.

Vẫn đang trên đường tìm kiếm những cách khác để cải thiện sức khỏe của mình, Katsuzo đã đọc rất nhiều sách hiện đại của các bác sĩ hiện đại cũng như các luận văn cổ đại về y học Đông Âu. Kết quả là ông đã cho ra đời tác phẩm của chính mình, trong đó ông đưa ra một phương pháp của riêng mình giúp tăng cường sức khỏe cơ thể. Phương pháp của ông được ra đời năm 1927 khi ông gần 44 tuổi.

6 quy tắc vàng của Nhật Bản dành cho những ai muốn khỏe mạnh hơn và tránh được bệnh tật - Ảnh 2.
Ngày nay, phương pháp chăm sóc sức khỏe của Katsuzo được rất nhiều người theo dõi trên khắp thế giới.

Ngày nay, phương pháp chăm sóc sức khỏe của Katsuzo, đã thu hút được rất nhiều người theo dõi trên khắp thế giới kể từ khi nó được biết đến lần đầu tiên cách đây 90 năm.

Dưới đây là 6 nguyên tắc cơ bản trong phương pháp giữ gìn sức khỏe của ông Nishi Katsuzo.

Quy tắc số 6: Nằm trên mặt phẳng cứng

6 quy tắc vàng của Nhật Bản dành cho những ai muốn khỏe mạnh hơn và tránh được bệnh tật - Ảnh 3.
Giữ cột sống thẳng khiến bạn có cảm giác cao hơn 2cm và có lợi cho hoạt động của các cơ quan tiêu hóa và hệ tuần hoàn trong cơ thể.

Như chúng ta đều biết, độ cong cột sống có thể gây ra nhiều vấn đề cho nội tạng trong cơ thể. Đó là lý do tại sao điều quan trọng là kiểm soát tư thế của bạn trong suốt ngày dài, thậm chí cả vào ban đêm. Katsuzo tuyên bố rằng giữ cột sống thẳng khiến bạn có cảm giác cao hơn 2cm và có lợi cho hoạt động của các cơ quan tiêu hóa và hệ tuần hoàn trong cơ thể. Và nằm trên mặt phẳng cứng có thể đảm bảo được điều này.

Nguyên tắc số 5: Dùng con lăn thay vì gối

6 quy tắc vàng của Nhật Bản dành cho những ai muốn khỏe mạnh hơn và tránh được bệnh tật - Ảnh 4.
Người Nhật tin rằng chứng vẹo cột sống cổ là một trong những dấu hiệu đầu tiên cho thấy cuộc sống của một người sẽ bị rút ngắn. Và trong khi chúng ta có thể kiểm soát được tư thế đầu của mình trong ngày thì lại khó làm như vậy vào ban đêm. Đó là lý do tại sao Katsuzo khuyên bạn nên mua một chiếc gối cứng hoặc một con lăn và đặt nó vào phần đốt sống cổ thứ 3-4 mỗi khi ngủ. Làm như thế sẽ giữ được cho cột sống của bạn ở vị trí thích hợp.

Lúc đầu, một con lăn sẽ gây ra sự khó chịu khi nằm lên. Nhưng bạn có thể quấn nó trong một vài lớp vải và sau đó loại bỏ chúng từng cái một.

Nguyên tắc 4: Tập thể dục như con cá vàng

6 quy tắc vàng của Nhật Bản dành cho những ai muốn khỏe mạnh hơn và tránh được bệnh tật - Ảnh 5.
- Nằm thẳng trên bề mặt cứng.

- Đặt tay bạn đeo dưới cổ, vào đốt sống thứ 3 và thứ 4. Hai chân để sát lại với nhau và mở rộng bàn chân ra hai bên.

- Di chuyển chân sang trái và sang phải để người rung theo. Lặp lại bài tập trong hai phút.

6 quy tắc vàng của Nhật Bản dành cho những ai muốn khỏe mạnh hơn và tránh được bệnh tật - Ảnh 6.
Nguyên tắc 3: Cải thiện tuần hoàn mao mạch

6 quy tắc vàng của Nhật Bản dành cho những ai muốn khỏe mạnh hơn và tránh được bệnh tật - Ảnh 7.
- Nằm trên một bề mặt cứng và phẳng.

- Đặt một con lăn rắn dưới đốt sống cổ thứ 3 và thứ 4 của cổ.

- Nâng cao chân và cánh tay lên phía trần nhà, uốn cong khuỷu tay và đầu gối, thư giãn càng nhiều càng tốt.

- Lắc tay và chân của bạn qua lại 2 bên trái phải.

- Lặp lại bài tập này cho 1-3 phút.

6 quy tắc vàng của Nhật Bản dành cho những ai muốn khỏe mạnh hơn và tránh được bệnh tật - Ảnh 8.
Nguyên tắc 2: Chạm lòng bàn tay và lòng bàn chân vào nhau

6 quy tắc vàng của Nhật Bản dành cho những ai muốn khỏe mạnh hơn và tránh được bệnh tật - Ảnh 9.
Vị trí bắt đầu: Nằm trên một bề mặt cứng và phẳng và đặt một con lăn rắn dưới cột sống thứ 3 và thứ 4 của cổ. Uốn cong đầu gối và vẫn có thể để trên sàn nhà, 2 lòng bàn chân chạm vào với nhau.

- Hai lòng bàn tay của bạn chạm vào với nhau và vuông góc với cơ thể nhưng chỉ ấn các đầu ngón tay chặt vào nhau. Lặp lại các hành động tương tự, nhưng lần này hãy ấn tất cả lòng bàn tay của bạn vào nhau. Giữ 2 bàn tay chặt vào nhau, nhấc tay lên, rồi đặt chúng lên qua đầu.

- Đặt 2 lòng bàn tay (vẫn đang chạm vào nhau) phía sau đầu của bạn. Sau đó đưa tay trở lại trước ngực.

- Đặt bàn tay của bạn trở lại vào ngực và bắt đầu di chuyển chân của bạn về phía trước và ngược lại, giữ bàn tay, bàn chân chạm vào nhau.

- Kết hợp cả cử động tay và chân. Nếu bạn cảm thấy đau đớn, giảm số lần thực hiện. Trở lại vị trí bắt đầu và nghỉ ngơi trong vòng 10 phút.

6 quy tắc vàng của Nhật Bản dành cho những ai muốn khỏe mạnh hơn và tránh được bệnh tật - Ảnh 10.
Quy tắc 1: Tập thể dục cho cột sống và dạ dày

6 quy tắc vàng của Nhật Bản dành cho những ai muốn khỏe mạnh hơn và tránh được bệnh tật - Ảnh 11.
Vị trí bắt đầu: Ngồi chân chéo và 2 bàn chân đều để trên dùi, hạ vai xuống một chút.

- Di chuyển đôi vai lên xuống mà không thay đổi vị trí của cánh tay.

- Di chuyển đôi tay của bạn trở lại vị trí bắt đầu và cúi đầu về phía vai trái của bạn, sau đó lặp lại bài tập cho vai phải của bạn.

- Đặt tay lên trên đầu và nâng đầu, kéo cằm lên. Sau đó hạ thấp đầu để cằm bạn chạm vào ngực.

- Nâng tay lên hai bên, giữ chúng song song với sàn, và uốn cong khuỷu tay. Sau đó duỗi 2 tay ra 2 bên, kéo hai cánh tay ra, thẳng lưng, ngửa đầu ra sau lưng và giữ vị trí này trong 7 giây.

- Ngồi ở vị trí bắt đầu và lặp lại bài tập thứ nhất, di chuyển vai của bạn khi bạn hít vào và thở ra.

- Lặp lại mỗi lần tập thể dục 10 lần. Sau mỗi lần tập thể dục thực hiện như sau: Kéo tay ra trước mặt vuông góc với sàn nhà. Bend đầu của bạn sang trái và nhìn về phía sau. Làm tương tự như vậy về phía bên phải. Thực hiện như vậy khi tay đưa lên cao.

Address

Hanoi
100000

Telephone

+84981000127

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Báo Chăm Sóc- Sức Khỏe - Đời Sống & Gia Đình posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Practice

Send a message to Báo Chăm Sóc- Sức Khỏe - Đời Sống & Gia Đình:

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram