Tổng Kho Thuốc Thủy sản - Telaco Việt Nam

Tổng Kho Thuốc Thủy sản - Telaco Việt Nam Chuyên cung cấp giải pháp phòng và điều trị bệnh trên vật nuôi và thủy sản. Hotline: 0384868638.

  SulphateQuy cách: 10bou/ thùngXuất xứ: Trung Quốc.Hàm lượng: Max 76%
06/04/2024

Sulphate
Quy cách: 10bou/ thùng
Xuất xứ: Trung Quốc.
Hàm lượng: Max 76%

Giá tôm sắp trở lại và hứa hẹn sẽ lợi hại hơn xưa.
16/07/2023

Giá tôm sắp trở lại và hứa hẹn sẽ lợi hại hơn xưa.

(vasep.com.vn) Nhu cầu nhập khẩu tôm của Trung Quốc dần phục hồi trở lại với lượng tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, giá tôm nhập khẩu

Từ diện tích nuôi tôm công nghệ ban đầu 550ha năm 2018, đến cuối năm 2022 toàn tỉnh Bến Tre đạt 2.567ha, năng suất tôm đ...
26/06/2023

Từ diện tích nuôi tôm công nghệ ban đầu 550ha năm 2018, đến cuối năm 2022 toàn tỉnh Bến Tre đạt 2.567ha, năng suất tôm đạt bình quân 60-70 tấn/ha, lợi nhuận trung bình từ 700-800 triệu đồng/vụ, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân...
Nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao mang lại hiệu quả kinh tế cao nên phương thức nuôi truyền thống dần được thu hẹp. Qua đó, diện tích nuôi tôm công nghệ cao được nâng lên qua các năm, cho thấy mục tiêu 4.000ha nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao sẽ đạt được sớm hơn Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bến Tre đề ra vào cuối năm 2025.

Trước diễn biến bất lợi của thời tiết, Sở NN-PTNT nhiều tỉnh miền Bắc và miền Trung đã có văn bản gửi các huyện, thị xã,...
26/06/2023

Trước diễn biến bất lợi của thời tiết, Sở NN-PTNT nhiều tỉnh miền Bắc và miền Trung đã có văn bản gửi các huyện, thị xã, thành phố về việc cảnh báo nắng nóng và giải pháp khắc phục trong nuôi trồng thủy sản năm 2023, trong đó có việc nuôi tôm nước lợ.

Cụ thể: Định kỳ sử cần xử lý nước để cải thiện môi trường nước, kiểm soát mật độ tảo, ổn định pH và độ kiềm, giảm hàm lượng khí độc H2S, NH3, NO2 và kiểm soát mật độ vi khuẩn Vibrio; duy trì mực nước trong ao từ 1,2 - 1,5m để giữ ổn định nhiệt độ, pH, độ mặn và độ kiềm trong ao.

Đối với các ao có màu nước vàng đậm hoặc xanh đậm, thể hiện sự tích tụ các chất dinh dưỡng dư thừa tăng lên, tảo phát triển mạnh hơn thì tăng cường quạt khí về đêm và sáng sớm nhằm đảm bảo oxy hòa tan trong ao, đáp ứng nhu cầu của tôm nuôi và các phản ứng hóa học xảy ra trong ao.

Thường xuyên kiểm tra thức ăn để điều chỉnh cho phù hợp, tránh dư thừa. Tăng cường sức đề kháng cho tôm bằng cách bổ sung Vitamin C, khoáng, vi sinh đường ruột, chất bổ gan trộn vào thức ăn cho tôm ăn.

Dự trữ nước sạch trong ao lắng để cung cấp hoặc thay thế một phần ao nuôi khi cần thiết. Hạn chế đánh bắt và vận chuyển tôm khi thời tiết nắng nóng…

24/05/2023

CEFOTAXIME
- Là thuốc kháng sinh nhóm cephalosporin thế hệ 3, có phổ kháng khuẩn rộng. Tác dụng mạnh lên các vi khu.ẩn gram âm(vi khu.ẩn Vibrio gây bệnh ở tôm) gram dương( vi khuẩn Streptococcus agalactiae gây bệ.nh ở cá) và các beta lactamase.
- Công dụng: Thuộc nhóm di.ệt khuẩn, với dược lực cực mạnh có chức năng t.ấn c.ông và t.iêu di.ệt các vi khuẩn gây bệ.nh ho.ại t.ử gan tụy, ph.ân trắng trên Tôm, m.ù mắt ở Cá, Đơ S.ưng vòi ở Ốc Hương...
- Vui lòng liên hệ hotline: 0384.868.638 để được tư vấn và hỗ trợ.

14/05/2023

EHP là gì?
EHP (Enterocytozoon hepatopenaei) là dịch bệnh nguy hiểm thường gặp trên tôm thẻ chân trắng, gây ảnh hưởng đến ngành nuôi tôm công nghiệp đã được quan tâm và đưa vào nghiên cứu trong nhiều năm nay.
EHP thường k có dấu hiệu rõ ràng, ngoài còi cọc, chậm lớn
Tác động của EHP đối với nuôi tôm
Hầu hết khi tôm nuôi nhiễm vi bào tử trùng (EHP) thường không có dấu hiệu bệnh lý rõ ràng. Đối với tôm giống thả nuôi trong tháng đầu tiên, tôm vẫn phát triển bình thường và thường sau khi tôm đạt đến trọng lượng từ 3-4g thì tôm có dấu hiệu chậm lớn và có thể dừng lớn hẳn.
Ngoài ra, nhiều phần trên cơ thể tôm chuyển sang màu trắng đục. Tôm nhiễm vi bào tử trùng (EHP) thường có hiện tượng mềm vỏ, giảm ăn, chết rải rác và rỗng ruột. Kích thước thường không đồng đều ở tôm nuôi trong những ao nhiễm bệnh.
Đặc điểm sinh học EHP
Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) thuộc họ Enterocytozoonidae, ngành Microsporidia. Quá trình hình thành EHP có thể được xem thành 3 giai đoạn chính như sau: Giai đoạn bào tử ngoại bào, nhiễm trùng (ma- ture) và nhiều giai đoạn sống nội bào.
Vòng đời và đường truyền của EHP:
(1) Sự nảy mầm của bào tử, trong đó bào tử đâm thủng màng tế bào chủ và truyền vật chất vào tế bào chủ.
(2) Quá trình phân chia hạt nhân để tạo ra một plasmodium phân nhánh.
(3) Tiền chất đùn bào tử được hình thành bên trong plasmodium.
(4) Plasmodium được phân cắt để tạo ra bào tử.
(5) Tế bào chủ bị vỡ để giải phóng bào tử trưởng thành truyền EHP thông qua phân và hiện tượng ăn nhau ở tôm nuôi.
Quá trình xâm nhập của EHP vào tế bào gan tụy trên tôm cũng tương tự sự xâm nhiễm của các bệnh khác ở các tế bào khác như HPV, YHV,... Ở đó, gan tụy trên tôm bắt đầu nhiễm bệnh bào tử của vi trùng sẽ làm thủng màng plasma của tế bào gan tụy, sau đó bào tử đưa trực tiếp tế bào chất vi trùng vào trong tế bào gan tụy của tôm. Chúng trưởng thành và làm ổ. Khiến các tế bào biểu mô của gan tụy tôm sưng lên và cuối cùng vỡ ra để giải phóng các bào tử trưởng thành. Từ đó tạo điều kiện cho sự nhiễm trùng ở các tế bào khác hoặc giải phóng bào tử trưởng thành vào môi trường thông qua phân, do đó làm lây nhiễm cho các loài tôm nuôi.
Bào tử
Bào tử EHP là bào tử đơn nhân, hình bầu dục có kích thước (1,1 ± 0,2 μm × 0,6 ± 0,2 μm). Bào tử của EHP được bao bọc bởi một thành bào tử gồm hai lớp dày đặc: Lớp exospore bên ngoài dày 10nm và elec- tron-lucent bên trong dày 2nm (nội bào tử). Lớp thành này có nhiệm vụ bảo vệ bào tử khỏi các điều kiện khắc nghiệt và các tác động bên ngoài từ môi trường. Vì vậy, mầm bệnh khó có thể được loại bỏ hoàn toàn ra khỏi ao nuôi.
Sự lây truyền
Trong ao nuôi, EHP truyền nhiễm khi tôm ăn phải phân có chứa bào tử được giải phóng từ tôm bị nhiễm bệnh trong môi trường sống hoặc do tình trạng ăn nhau trên tôm đã bị nhiễm bệnh trước đó.
Tôm bố mẹ bị nhiễm EHP có thể truyền cho tôm non trong trại giống thông qua việc thải phân có chứa bào tử trong bể sinh sản. Mặc khác, nauplii có thể bị nhiễm bệnh khi chúng bắt đầu ăn sinh vật phù du ở giai đoạn N6. Vì thế, trong nuôi trồng người ta thường rửa trứng hoặc nauplii giai đoạn đầu (N1-N5) bằng nước sạch để giúp giảm nguy cơ làm lây lan bệnh trong ao thả nuôi.
Chẩn đoán mô học
Quan sát vi bào tử trùng EHP trong mẫu phân và biểu mô gan tụy qua kiểm tra mẫu kính phết và mô học bằng kính hiển vi và các phương pháp được dùng trong chẩn đoán bệnh: Kỹ thuật PCR và LAMP; Phương pháp kiểm tra mẫu bằng kính hiển vi (nhuộm Hematoxylin và Eosin), kính hiển vi điện tử,…. để phát hiện nhanh chóng và chính xác EHP cho trại giống và ao nuôi.

(a) Tế bào biểu mô ống HP duy nhất cho thấy bản chất phân nhánh của plasmodium EHP trong tế bào chất tế bào, xung quanh nhân vật chủ.
(b) Hai photomicrographs của các tế bào HP nhẹ nhàng bị đè bẹp nhuộm màu phloxine B và hiển thị plasmodia phân nhánh và hạt nhân vật chủ.
(c) Potomicrograph cho thấy plasmodia dày (khó phân biệt phân nhánh).
(d) Photomicrograph một vết hp nhuộm H&E cho thấy một cụm bào tử EHP từ một tế bào biểu mô bị vỡ.
(e), (f) Hai máy quang hóa của vết hp nhuộm màu H&E, hiển thị EHP plasmodia và bào tử.
Mối tương quan giữa nhiễm EHP và “hội chứng phân trắng” (WFS)
Trong một số trường hợp, khi tôm nuôi bị nhiễm EHP sẽ không gây chết nhưng đồng thời cũng làm tôm giảm quá trình hấp thu các chất dinh dưỡng ở gan tụy, dẫn đến tiêu kém và có thể gây nên phân trắng. Mặt khác, khi tôm bị nhiễm trùng EHP nghiêm trọng thường đi kèm với sự tăng sinh của vi khuẩn dẫn đến sự xâm nhập của các mầm bệnh cơ hội khác và sự hiện diện của vi khuẩn có thể gây nên WFS ở tôm bị nhiễm bệnh nặng. Tuy trong ao nuôi EHP và WFS có thể hiện diện nhưng phân trắng không thể được coi là chỉ số nhiễm EHP..
Trong ao nuôi, EHP và WFS có thể hiện diện trong cùng một lúc hoặc ao có thể ngừng bị phân trắng nhưng khi kiểm tra tôm vẫn bị nhiễm EHP. Hơn nữa, phân trắng có thể do nhiều các nguyên nhân khác gây ra như nhiễm trùng gregarine nặng, do vi khuẩn, tảo hay nền đáy. Do đó, việc quan sát phân trắng trong hệ thống ao không thể được coi là chỉ số nhiễm EHP.
Ngoài ra, để đảm bảo nguyên nhân gây bệnh người nuôi có thể kiểm tra EHP trong các sợi phân trắng bằng kính hiển vi để giúp phân biệt giữa nhiễm EHP hoặc gregarine và có thể kiểm tra bằng phương pháp mô học khi thực hiện quan sát bằng kính hiển vi không đạt hiệu quả.
Phòng ngừa EHP trong ao nuôi
Để phòng ngừa EHP, người nuôi tôm nên đảm bảo rằng nguồn cung cấp ấu trùng sau (Postlarvae) âm tính với PCR và thực hiện các biện pháp an toàn sinh học thích hợp trước và sau khi thả giống để ngăn ngừa nhiễm bệnh.
Thức ăn tươi sống đặc biệt khi dùng cho tôm bố mẹ phải đảm bảo sạch hoặc được đông lạnh ở −20°C trong 48h.
Tôm bố mẹ nên bỏ đói từ 4-6h trước khi chuyển sang bể sinh sản để làm giảm tình trạng đi phân của chúng trong bể đẻ.
Trứng hoặc nauplii trước giai đoạn N6 nên được rửa kỹ bằng nước. Ấp trứng sạch để loại bỏ các mầm bệnh, EHP có khả năng từ phân tôm bố mẹ trong bể sinh sản.
Trước khi thả ao (đặc biệt là những ao trước đây đã bị ảnh hưởng bởi EHP), nên điều trị bằng vôi (CaO) để tiêu diệt các bào tử còn sót lại trong bể.
Tôm Postlarvae nên được kiểm tra PCR trước khi thả.
Sau khi thả giống PL âm tính với EHP, tôm trong ao nên được lấy mẫu và xét nghiệm EHP bằng phương pháp phân tử.
Bổ sung định kì các khoáng, Vitamin C nhằm tăng sức đề kháng, tăng cường trao đổi nước, loại bỏ phân thải thường xuyên cho tôm nuôi.

Nguồn: Thiên An

BỆNH ĐỎ THÂN TRÊN TÔM1. Nguyên nhân bị đỏ thân trên tôm sú, tôm thẻ?Virus WSSV là tác nhân chính gây bệnh đỏ thân trên t...
13/05/2023

BỆNH ĐỎ THÂN TRÊN TÔM
1. Nguyên nhân bị đỏ thân trên tôm sú, tôm thẻ?

Virus WSSV là tác nhân chính gây bệnh đỏ thân trên tôm sú. Ngoài ra, nhóm vi khuẩn Vibrio (Stapphylococus spl, Vibrio vulnificus, V.anginolyticus) tuy không là tác nhân chính gây bệnh nhưng chúng tác động khiến dịch bệnh bùng phát nhanh chóng trong diện rộng. Khi tôm bị nhiễm bệnh sẽ nhanh chóng bị bội nhiễm, bùng phát hội chứng chết đỏ, đặc biệt vào mùa đông xuân khi mà nhiệt độ xuống thấp dưới 300C.

2. Dấu hiệu tôm bị đỏ thân

Bệnh đỏ thân trên tôm sú, tôm thẻ với các biểu hiện của bệnh lý rất rõ ràng có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Khi tôm nhiễm bệnh, xuất hiện các dấu hiệu như: tôm yếu, tiêu thụ thức ăn kém, ruột rỗng không có thức ăn, bơi lờ đờ tấp mé, cơ thể tôm chuyển sang màu hồng hoặc đỏ bầm (1 số trường hợp đỏ từ đốt đuôi trở lên). Xuất hiện đốm trắng với kích cỡ 0,5 – 2 mm ở vỏ tôm, đặc biệt ở phần giáp đầu ngực, đồng thời thân tôm chuyển sang màu đỏ. Khi giải phẫu quan sát thấy gan tụy của một số con có màu trắng xám. Tôm có thể chết rải rác sau khi nhiễm bệnh, bệnh lây lan nhanh sau 5-7 ngày nhiễm bệnh tỷ lệ chết có thể lên đến 100% ao nuôi. Nguyên nhân của việc tôm chết rải rác là bởi nguồn tôm giống khác nhau và thời điểm bị nhiễm bệnh cũng là khác nhau.

3. Cách phòng bệnh đỏ thân trên tôm sú, tôm thẻ

Theo các kết quả nghiên cứu cho biết, hiện nay bệnh đỏ thân ở tôm có 3 nguyên nhân gây bệnh, đó là do nhiễm virus, do môi trường và nhiễm khuẩn. Tôm bị nhiễm bệnh do môi trường và nhiễm khuẩn có thể xử lý, khắc phục được, còn những tôm bị nhiễm bệnh do virus thì chưa có biện pháp hữu hiệu để điều trị. Do vậy, việc phòng bệnh ngay từ ban đầu là việc cần thiết và rất quan trọng.

4. Phòng bệnh

Hiện tại hội chứng chết đỏ thân mới chỉ áp dụng các phương pháp phòng bệnh, chưa có liệu pháp trị bệnh. Để phòng được hội chứng chết đỏ ở tôm thẻ chân trắng cần phải chú ý hai yếu tố quan trọng nhất là phải chọn con giống sạch bệnh và hạn chế nuôi tôm thẻ chân trắng trong điều kiện nhiệt độ thấp.

Sử dụng phương pháp PCR để loại bỏ các con giống bị nhiễm virus WSSV. Chọn mùa vụ nuôi thích hợp. Nếu nuôi tôm thẻ chân trắng vụ đông xuân thì phải chủ động phương pháp điều chỉnh nhiệt độ trong môi trường nuôi như phương pháp nuôi tôm trong nhà bạt.

Ngoài ra còn phải áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp cho tôm, tăng cường sức đề kháng tự nhiên cho tôm, giảm sự phát triển của các vi sinh vật gây bệnh trong nước, tránh hiện tượng bội nhiễm trên tôm nuôi.

Cần có biện pháp cải tạo ao nghiêm ngặt, đánh chlorine cho ao để diệt sạch giáp xác hoang dã, động vật đáy có thể mang mầm bệnh. Ổn định môi trường nuôi bằng cách đánh vi sinh định kỳ thậm chí đánh hằng ngày với liều lượng thấp.

Sát trùng ao nuôi bằng chlorine để tiêu diệt giáp xác và các mầm bệnh virus, vi khuẩn trong môi trường ao nuôi trước khi đưa tôm vào nuôi. Làm lưới chắn cẩn thận để kiểm soát địch hại mang mầm bệnh từ bên ngoài vào môi trường nuôi.

BỆNH ĐỤC CƠ VÀ HOẠI TỬ CƠ TRÊN TÔMPhân biệt hai loại bệnh1. Bệnh đục cơ, cong thân:- Bệnh thường bắt đầu xuất hiện ở Tôm...
13/05/2023

BỆNH ĐỤC CƠ VÀ HOẠI TỬ CƠ TRÊN TÔM
Phân biệt hai loại bệnh
1. Bệnh đục cơ, cong thân:
- Bệnh thường bắt đầu xuất hiện ở Tôm thẻ chân trắng 10 ngày tuổi cho đến khi trưởng thành, biểu hiện phần mô cơ chạy dọc theo cơ thể tôm trở nên trắng đục kèm theo hiện tượng cong thân. Bẹnh này nếu không can thiệp kịp thời có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của Tôm thẻ chân trắng. Bệnh này do thiếu một số khoáng chất thiết yếu trong nước, hoặc bị sốc bởi yếu tố môi trường, tác nhân vật lý…dẫn đến đục cơ và cong thân, nên người nuôi tôm thường gọi là bệnh đục cơ, cong thân.
2. Bệnh hoại tử cơ:
- Bệnh hoại tử cơ (Infectious myoecrosis-IMNV) do virus gây ra. Bệnh thường xuất hiện ở TTCT giai đoạn 45 ngày tuổi trở lên. Biểu hiện ban đầu: phần cơ đuôi trở nên trắng đục, sau đó lan dần khắp cơ thể. Ở giai đoạn nặng có thể dẫn đến hiện tượng hoại tử và đỏ ở phần cơ. Tôm chết và rớt đáy tỷ lệ khá cao.
Cách phòng, trị bệnh:
- Khi phân biệt được hai loại bệnh sẽ biết được nguyên nhân và đưa ra cách điều trị thích hợp.
Đối với bệnh đục cơ cong thân, nguyên nhân chính là do thiếu chất khoáng nên người nuôi tôm cần phải bổ sung khoáng cho tôm ngay từ đầu vụ nuôi. Bên cạnh đó, phải đảm bảo pH và độ kiềm ổn định trong ngưỡng cho phép. Theo nhiều người nuôi tôm, khi bệnh này thì ngày đầu tiên sử dụng khoáng chất lượng tốt tạt xuống ao nuôi lúc 16h-18h, ngày tiếp theo sử dụng vôi nông nghiệp 30kg/1.000 m3 nước, dùng lúc 20h-21h để tránh pH tăng. Đến ngày thứ 3, sử dụng chế phẩm sinh học vi sinh để cải thiện môi trường và tôm sẽ bắt mồi trở lại.
- Một nguyên nhân nữa khiên TTCT bị bệnh này là do ảnh hưởng môi trường như Oxy thấp, khí độc cao, nhiệt độ thay đổi. Chài tôm kiểm tra không đúng kỹ thuật cũng có thể khiến tôm bị bệnh này (tôm bị hoảng).
Hiện nay, trên thị trường có nhiều sản phẩm bổ sung khoáng rất tốt để phòng ngừa và điều trị bệnh.
Đối với hoại tử cơ, đây là bệnh do virus nên chưa có thuốc đặc trị. Cách phòng trị tốt nhất là vệ sinh ao cẩn thạn trước và sau vụ nuôi.
Sử dụng chế phẩm sinh học để giảm ô nhiễm và giảm sự phát sinh mầm bệnh, có thể khử trùng nước định kỳ để giảm virus và vi khuẩn trong ao, sau đó dùng chế phẩm sinh học để phục hồi hệ vi sinh trong ao.
Tăng cường vitamin và khoáng chất giúp tôm khỏe mạnh và đề kháng tốt với sự thay đổi môi trường cũng như sự tấn công của dịch bệnh.
Luôn đảm bảo lượng oxy đầy đủ khi nuôi Tôm thẻ chân trắng từ 4 mg/l trở lên, nhất là nuôi với mật độ cao.
Nguồn: Trọng Nam- Thủy sản Việt Nam.

Bệnh HOẠI TỬ CƠ ở tôm thẻ chân trắnginfectious myonecrosis virus – IMNV1. Nguyên nhânBệnh hoại tử cơ là một bệnh truyề...
12/05/2023

Bệnh HOẠI TỬ CƠ ở tôm thẻ chân trắng
infectious myonecrosis virus – IMNV
1. Nguyên nhân
Bệnh hoại tử cơ là một bệnh truyền nhiễm do tác nhân vi rút gây ra (infectious myonecrosis virus – IMNV). Đây là một trong những bệnh vi rút trên tôm được phát hiện trong thời gian gần đây nhất. Năm 2002, bệnh xảy ra lần đầu tiên ở các ao nuôi tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei miền Đông Bắc Braxin. Sau đó, bệnh lây lan sang các nước khác thuộc khu vực Châu Á như Indonesia, Thái Lan và tỉnh Hải Nam, Trung Quốc. Quá trình lây lan của IMNV qua các châu lục khác nhau được ghi nhận là do sự nhập chuyển của tôm bố mẹ P. vannamei.
IMNV là vi rút có vật chất di truyền là ARN mạch đôi, với kích thước 7.560bp, cấu trúc không có lớp màng bao. Phân tích phát sinh loài dựa vào gen RNA-dependent RNA polymerase (RdRp) đã phân loại IMNV vào họ Totiviridae, giống Giardiavirus.
2. Triệu chứng
Tôm thẻ chân trắng được ghi nhận là vật chủ chính của IMNV do khả năng gây tỉ lệ chết cao ở loài tôm này. IMNV thường gây tỉ lệ chết cho tôm thẻ chân trắng trong khoảng từ 40 cho đến 70% quần đàn. Tuy nhiên, trong các vùng nuôi tôm thẻ chân trắng có xảy ra dịch bệnh thì tỉ lệ chết do IMNV có thể lên đến 100%. Trong điều kiện phòng thí nghiệm đã cho thấy IMNV có khả năng cảm nhiễm với hai loài tôm, tôm xanh Nam Mỹ (Penaeusstylirostris) và tôm sú (Penaeus monodon).Nhiệt độ và nồng độ muối được xem là một trong những yếu tố môi trường có ảnh hưởng đến quá trình bộc phát của bệnh hoại tử cơ.
Ở giai đoạn cấp tính, tôm bệnh hoại tử cơ thường có các dấu hiệu bệnh lý như phần cơ bụng và cơ đuôi trắng đục, do vậy có thể dẫn đến hiện tượng hoại tử và đỏ ở các vùng cơ này. Trong một số trường hợp, cơ quan lympho trương to lên gấp 2-4 lần kích thước bình thường (Hình 1). Ao tôm nhiễm IMNV mức độ nặng có thể chết đột ngột và kéo dài trong nhiều ngày. Bệnh hoại tử cơ với tỉ lệ chết cao đột ngột, thường xảy ra vào sau các thời điểm hay các hoạt động có thể gây sốc cho tôm ví dụ chài tôm, độ mặn hay nhiệt độ thay đổi một cách đột ngột... Một số tôm bệnh chết do IMNV vẫn ở trạng thái no với ruột đầy thức ăn, đó là do tôm vừa được cho ăn no ngay trước thời điểm xuất hiện của các nhân tố gây sốc kể trên.
Bệnh hoại tử cơ IMN trên tôm thẻ chân trắng có dấu hiệu lâm sàng và đặc điểm mô bệnh học tương tự với bệnh trắng đuôi trên tôm biển gây ra bởi một loài vi rút khác có tên là Penaeus vannamei novavirus – PvNV. Do vậy, cần lưu ý đặc điểm này trong quá trình chẩn đoán bệnh.
Tôm thẻ chân trắng ở giai đoạn ấu niên, tiền trưởng thành là thường nhạy cảm nhất với IMNV. Trong đó, cơ quan đích của IMNV được ghi nhận là cơ vân, mô liên kết, tế bào máu, và cơ quan bạch huyết. Do vậy, đây là một trong những cơ quan được sử dụng cho các qui trình chẩn đoán bệnh. Trường hợp tôm nhiễm IMNV mãn tính, cơ quan bạch huyết được ưu tiên dùng để phân lập IMNV. Chân bơi là cơ quan được khuyến cáo nên dùng cho quá trình phát hiện IMNV trên tôm bố mẹ.
Phân bố
Về phương thức lây nhiễm, IMNV được xác định có khả năng truyền bệnh nếu tôm khỏe ăn tôm bệnh nhiễm IMNV. Ngoài ra, IMNV còn được ghi nhận lây lan thông qua nguồn nước. Phương thức lây nhiễm theo chiều dọc từ bố mẹ truyền qua cho thế hệ con vẫn chưa được xác định là do sự nhiễm bên ngoài trứng hay bên trong buồng trứng. Vẫn chưa có số liệu về vật truyền bệnh IMN.
Tuy nhiên, do tác nhân gây bệnh hoại tử cơ có cấu trúc ARN mạch đôi, không có màng bao cho nên rất có khả năng là IMNV vẫn còn giữ khả năng lây nhiễm khi tồn tại trong ruột và chất thải của một số loài chim biển đã ăn những con tôm bệnh chết do IMNV.
3. Phòng trị
Trong các trại sản xuất tôm giống, phương thức tiệt trùng trứng và ấu trùng được xem là một trong những phương pháp phòng bệnh hiệu quả. Sàng lọc và thả tôm giống không nhiễm IMNV được xem là giải pháp phòng bệnh trong các ao nuôi tôm thịt. Trường hợp ao nuôi thịt vừa xuất hiện vài con tôm chết với dấu hiệu của bệnh hoại tử cơ, nên thực hiện các bước xử lý: (i) ổn định môi trường ao nuôi, chú trọng đến nhiệt độ, nồng độ muối, pH; (ii) tăng cường sục khí; (iii) giảm lượng thức ăn hoặc ngừng cho tôm ăn. Trường hợp bệnh xảy ra với tỉ lệ chết cao, ao nuôi tôm thịt cần được xử lý với chorin 30ppm trong vài ngày.
Tài liệu tham khảo
bởi Ths. Trần Thị Tuyết Hoa (Nguồn: UV Việt Nam)

Về bệnh VIÊM GAN TỤY CẤP trên Tôm- Bệnh hoại tử gan tụy cấp (Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease- AHPND) ha...
12/05/2023

Về bệnh VIÊM GAN TỤY CẤP trên Tôm
- Bệnh hoại tử gan tụy cấp (Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease- AHPND) hay còn gọi là hội chứng chết sớm (Early Mortality Syndrome-EMS)
1. Dấu hiệu bệnh lý:
- AHPND xảy ra cả ở Tôm sú và Tôm thẻ chân trắng, thường ở giai đoạn từ 20-45 ngày sau khi thả nuôi và tỷ lệ chết có thể lên đến 100%. Tôm bệnh có biểu hiện ngừng ăn, bơi chậm, vỏ mỏng. Màu tôm nhợt nhạt. Gan tụy có biểu hiện sung, nhũn hoặc teo và dịch bệnh xảy ra ở hầu hết các tháng trong năm.
2. Tác nhân gây bệnh:
- Một vài nghiên cứu gần đây đề xuất Vibrio Owensii, V. Harvey, V. Campbellii và V. punensis chứa gen quy định độc tố PirAB cũng gây bệnh AHPND. Mặc dù phân tích mô bệnh học trên tôm phù hợp với các dấu hiệu của bệnh hoại tử gan tụy cấp tính AHPND, tuy nhiên bệnh này không thỏa mãn các định nghĩa về bệnh AHPND trên tôm được cung cấp bởi tổ chức Thú y Thế giới. Chính vì vậy, hiện nay vi khuẩn V. parahaemolyticus có chứa các gen quy định độc PirA và PirB là tác nhân duy nhất gây bệnh AHPND.
3. Phòng bệnh:
- CON GIỐNG trước khi thả nuôi phải được kiểm dịch đảm bảo không nhiễm mầm bệnh đặc biệt là không nhiễm vi khuẩn V. parahaemolyticus mang gen độc lực gây bệnh.
- Trong 6 tuần đầu tiên sau khi thả, các cơ sở nuôi thâm canh, bán thâm canh cần lấy mẫu tôm, nước, bùn định kỳ 2 tuần/lần để định lượng Vibrio tổng số đồng thời phát hiện V. parahaemolyticus mang gen gây bệnh.
- Nếu kiểm tra mẫu nước hoặc bùn ao nuôi phát hiện vi khuẩn Vibrio tổng số vượt quá giới hạn cho phép (≥ 103 CFU/ml), cần thực hiện các biện pháp điều chỉnh, làm giảm số lượng vi khuẩn Vibrio trong ao như sử dụng các chế phẩm sinh học, các loại hóa chất diệt khuẩn trong Danh mục thuốc thú y dùng trong thú y thủy sản được phép lưu hành tại Việt Nam.
Cải tạo đáy ao kỹ, lắng nược đủ lâu và xử lỷ triệt để. Trong suốt vụ nuôi giữ đáy ao sạch. lắp đủ quạt để đảm bảo Oxy hòa tan luôn đủ hoặc thừa.
4. Trị bệnh:
Khi tôm bị bệnh cần giảm hoặc ngưng cho ăn và quan sát tình hình ao tôm nhằm hạn chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh. Cần xẹt nghiệm xsc định chính xác tác nhân và thử kháng sinh đồ để lựa chọn kháng sinh hiệu quả nhất. Các chủng V.parahaemolyticus gây bệnh AHPND có tỷ lệ kháng khá cao với Amoxicillin (80,85%) và Ampicillin (78,72%), vì vậy không nên sử dụng hai loại kháng sinh này trong điều trị bệnh AHPND do V.pahaemolyticus. Theo nghiên cứu mới nhất thì các loại kháng sinh có hiệu quả là Doxycycline, Oxytetracycline, Florfenicol.
Nguồn: Tiến sĩ Lê Tuấn Sơn - Viện nghiên cứu Thủy sản.

CFU trong men vi sinh là gì? Cách đọc CFU ghi trên mấy cái gói men vi sinh.Xin chào anh em.Như anh em thường thấy, trên ...
12/05/2023

CFU trong men vi sinh là gì? Cách đọc CFU ghi trên mấy cái gói men vi sinh.
Xin chào anh em.
Như anh em thường thấy, trên mấy cái gói men vi sinh hay ghi 10^9 cfu/g, lúc thì nó ghi cfu/g, lúc thì ghi cfu/kg, cfu/ml, ...
Nay mình chia sẻ cách đọc mấy cái số này để anh em dễ hình dung cái gói men vi sinh mà anh em đang cầm nó có chứa (khoảng) bao nhiêu con vi sinh. Rồi cách mà người bán vi sinh "lươn lẹo" để "đánh lừa" anh em ra sao (xin lỗi anh em bán hàng thủy sản trước nha).
1. CFU LÀ GÌ?
CFU là viết tắt của Colony Forming Units, là đơn vị đo số lượng của một loại vi sinh vật cụ thể, còn sống và đang hoạt động trong một môi trường hoặc trong một đơn vị khối lượng (hay thể tích) nào đó.
Thông thường thì các loài vi sinh vật sẽ được đo bằng CFU trên Gram (g) hoặc trên Mililit (ml).
👉 Số lượng vi sinh vật trên một đơn vị môi trường (ví dụ như 10 con vi sinh vật Lactobacillus Acidophilus trên 1 gram bột hoặc 100 con vi sinh vật Rhodobacter trên 1 mililít dung dịch) sẽ được gọi là mật độ vi sinh. Nói tóm lại, CFU là đơn vị để đo mật độ vi sinh.
2. TẠI SAO CFU LẠI DÙNG SỐ MŨ?
Trong đơn vị CFU, người ta thường dùng số mũ, ví dụ như 10^9, 10^8, 10^7. Đó là vì trong một đơn vị môi trường (gram, kilôgam, mililít, lít) có rất nhiều đơn vị vi sinh vật, có thể lên tới hàng tỉ, chục tỉ hoặc trăm tỉ con. Chính vì thế, để rút ngắn cách viết, người ta sẽ viết bằng số mũ.
Cụ thể:
10^a tức là có a số 0 phía sau. Ví dụ như 10^9 là có 9 số 0 phía sau (1.000.000.000), tương tự cho 10^8 là có 8 con số 0 phía sau (100.000.000).
b x 10^9 sẽ là có 9 con số 0 đằng sau số b. Ví dụ như 2 x 10^9 là có 9 con số 0 phía sau số 2 (2.000.000.000).
Trường hợp đối với số thập phân như 1,2 hay 3,9 thì khi nhân với số mũ, ta sẽ lùi bớt đi một con số 0. Ví dụ như 3,9 x 10^9 sẽ là 3.900.000.000 (chỉ còn lại 8 số 0), tương tự với 1,2 x 10^8 sẽ là 120.000.000 (chỉ còn lại 7 số 0).
Với số thập phân, để ngắn gọn hơn, ta có thể viết theo kiểu đơn vị bằng chữ. Ví dụ như 3,9 x 10^9 thay vì viết 3.900.000.000, ta có thể viết ngắn gọn là 3,9 tỉ hay 3 tỉ 9.
Một vài con số dễ nhớ:
10^11 sẽ là 100 tỷ. Tức là 10^11 = 100.000.000.000 = 100 tỷ
10^10 sẽ là 10 tỷ. Tức là 10^10 = 10.000.000.000 = 10 tỷ
10^9 sẽ là 1 tỷ. Tức là 10^9 = 1.000.000.000 = 1 tỉ.
10^8 sẽ là 100 triệu. Tức là 10^8 = 100.000.000 = 100 triệu
10^7 sẽ là 10 triệu. Tức là 10^7 = 10.000.000 = 10 triệu
10^6 sẽ là 1 triệu. Tức là 10^6 = 1.000.000 = 1 triệu
3. CÁCH ĐỌC SỐ CFU TRÊN BAO BÌ SẢN PHẨM MEN VI SINH
Trong các sản phẩm nguyên liệu công nghệ sinh học hoặc các loại nguyên liệu thủy sản, chúng ta bắt gặp rất nhiều cách ghi CFU khác nhau. Có khi là CFU/g, có khi lại là CFU/kg. Có khi là CFU/ml, có khi lại là CFU/l. Vậy cách đọc CFU như thế nào cho đúng?
Ví dụ:
Mật độ vi sinh vật Lactobacillus Acidophilus trong sản phẩm Men vi sinh cho tôm Bio ABC là 1,0 x 10^9 CFU / gram 👉 Tức là trong 1g bột sản phẩm Bio ABC có chứa 10^9 (1 tỉ) con vi sinh Lactobacillus Acidophilus.
Mật độ vi sinh vật Rhodobacter trong sản phẩm dịch Rhodo nguyên liệu là 1,2 x 10^9 CFU / mililít 👉 Tức là trong 1ml dịch sản phẩm Rhodo nguyên liệu có chứa 1,2 x 10^9 (1,2 tỉ) con vi sinh Rhodobacter.
Nếu đơn vị là kg hoặc là lít, chúng ta phải cộng/trừ đi các số 0 tương ứng. Theo quy ước quốc tế thì 1 kg sẽ bằng 1000g, viết theo kiểu toán học thì 1kg = 10^3 g hay 1g = 10^(-3) kg. Tương tự với dung dịch thì 1 lít sẽ bằng 1000ml, viết theo kiểu toán học thì 1l = 10^3 ml hay 1ml = 10^(-3) lít.
Hay nói dễ hiểu hơn thì giữa kilogram (kg) và gram (g) thì cộng/trừ đi 3 số 0 (± 10^3), tương tự giữa lít (l) và mililít (ml) cũng cộng/trừ đi 3 số 0 (± 10^3). Ví dụ:
Mật độ vi sinh vật Lactobacillus Acidophilus trong sản phẩm Men vi sinh cho tôm Bio ABC là 1,0 x 10^9 CFU / gram, nếu quy đổi là kilogram thì sẽ là 1,0 x 10^12 CFU / kilogram 👉 Tức là trong 1g bột sản phẩm Bio ABC có chứa 10^9 (1 tỉ) con vi sinh Lactobacillus Acidophilus, tương ứng với trong 1kg bột sản phẩm Bio ABC có chứa 10^12 (1000 tỉ) con vi sinh Lactobacillus Acidophilus.
Mật độ vi sinh vật Lactobacillus Acidophilus trong sản phẩm Men vi sinh cho tôm Bio ABC là 1,0 x 10^9 CFU / kilogram, nếu quy đổi là gram thì sẽ là 1,0 x 10^6 CFU / gram 👉 Tức là trong 1kg bột sản phẩm Bio ABC có chứa 10^9 (1 tỉ) con vi sinh Lactobacillus Acidophilus, tương ứng với trong 1g bột sản phẩm Bio ABC có chứa 10^6 (1 triệu) con vi sinh Lactobacillus Acidophilus.
Tương tự với sản phẩm men vi sinh dạng dung dịch:
Mật độ vi sinh vật Rhodobacter trong sản phẩm dịch Rhodo nguyên liệu là 1,2 x 10^9 CFU / mililít 👉 Tức là trong 1ml dịch sản phẩm Rhodo nguyên liệu có chứa 1,2 x 10^9 (1,2 tỉ) con vi sinh Rhodobacter, tương ứng với trong 1l dịch sản phẩm Rhodo nguyên liệu có chứa 1,2 x 10^12 (1000 tỉ) con vi sinh Rhodobacter.
Mật độ vi sinh vật Rhodobacter trong sản phẩm dịch Rhodo nguyên liệu là 1,2 x 10^9 CFU / lít 👉 Tức là trong 1l dịch sản phẩm Rhodo nguyên liệu có chứa 1,2 x 10^9 (1,2 tỉ) con vi sinh Rhodobacter, tương ứng với trong 1ml dịch sản phẩm Rhodo nguyên liệu có chứa 1,2 x 10^6 (1 triệu) con vi sinh Rhodobacter.
4. CÁCH TÍNH CFU NHƯ THẾ NÀO?
Nghe thì có vẻ kì cục nhưng cách tính CFU đơn giản nhất là … đếm. Nhưng với con số vi sinh vật lên đến cả trăm tỉ, ngàn tỉ vi sinh vật trên một đơn vị môi trường nhu thế thì làm sao có thể đếm hết?
Cái này hơi phức tạp, mình sẽ ko nói quá nhiều. Anh em chỉ cần hiểu là người ta sẽ đếm vi sinh bằng hai cách:
Đếm thủ công: cái này thì mấy bé nhân viên lab test nước hay đếm khuẩn cho anh em nè.
Đếm bằng máy: Nguyên lí cơ bản của máy đếm khuẩn lạc tự động là máy đếm khuẩn lạc sẽ chụp một ảnh của đĩa (petri hoặc đĩa compact dry), ứng dụng sau đó máy sẽ quét và nó sẽ sử dụng một thuật toán để tách và đếm các khuẩn lạc có trên đĩa.
5. MẬT ĐỘ CFU / GRAM TRONG MEN VI SINH THỦY SẢN BAO NHIÊU LÀ ĐỦ?
Thông thường, men vi sinh sử dụng trong thủy sản sẽ có mật độ vào khoảng từ 10^7 CFU/g đến 10^8 CFU/g. Các loại men vi sinh đang lưu hành ngoài thị trường đa phần sẽ là 10^8 CFU/g.
Với thói quen ngâm ủ vi sinh với mật đường, cám gạo, … (các thành phần dinh dưỡng khác) để tăng sinh thì mật độ men vi sinh dùng trong thủy sản rơi vào khoảng 10^8 CFU/g hoặc 10^8 CFU/ml (tương ứng với 10^11 CFU/kg hoặc 10^11 CFU/lít) là phù hợp và vừa với túi tiền của bà con nuôi tôm.
Tuy nhiên, vẫn có những sản phẩm men vi sinh với mật độ rất cao, lên tới 10^9 CFU/g (1 tỉ), thậm chí lên tới 10^12 CFU/g (1000 tỉ). Để có thể đạt được mật độ này, đòi hỏi công nghệ sản xuất rất tiên tiến, chính vì thế giá thành thương mại những dòng men vi sinh này sẽ rất cao.
Đa phần thì những loại men vi sinh với mật độ cao (trên 10^9 CFU/g) là hàng nhập từ nước ngoài. Vì chỉ có công nghệ sản xuất tiên tiến của nước ngoài mới có khả năng nuôi cấy được mật độ vi sinh cao và đậm đặc như vậy. Đấy là chưa kể đến việc bảo quản các loại vi sinh mật độ cao này cũng khá là tốn kém chi phí.

VỀ BỆNH PHÂN TRẮNG Ở TÔM.1.Nguyên nhân:- Thời tiết bất thường, nắng nóng kéo dài, mưa liên tục hoặc xen nắng nóng lẫn cá...
11/05/2023

VỀ BỆNH PHÂN TRẮNG Ở TÔM.
1.Nguyên nhân:
- Thời tiết bất thường, nắng nóng kéo dài, mưa liên tục hoặc xen nắng nóng lẫn các cơn mưa lớn; nuôi tôm mật độ cao, oxy không đủ đáp ứng cho tôm; độ kềm trong ao nuôi ≤ 80 mg/l, pH ≥ 8,5, tảo trong ao phát triển gây hoa nước…
- Vi khuẩn gây bệnh cho tôm chủ yếu bởi Vibrio harveyi (chiếm tỷ lệ cao nhất: 85%), tiếp theo là V. vulnificus (80%), V. fluvialis (44%) và V. parahaemolyticus (28%).
- Do trùng 2 roi Gregarine, ký sinh trùng (KST) khu trú trong nếp gấp của ruột, tạo bào tử, phát triển, hút chất dinh dưỡng từ ruột, dạ dày tôm, để phát triển thành thể dinh dưỡng.
- Các loại tảo độc như tảo lam, tảo giáp, tảo mắt có trong ao gây ra.
- Thức ăn bảo quản không đúng cách, gây mốc làm phát sinh nhiều độc tố nấm mốc (mycotoxin).
2. Dấu hiệu nhận biết:
- Khi bị phân trắng, tôm thường nổi lên mặt nước, bơi lờ đờ, dạt gần bờ, kéo đàn bơi lòng vòng dọc bờ, ngang ao, búng nhảy. Quan sát tôm thấy xuất hiện điểm đỏ gốc râu, phần đầu ngực, thân, phần phụ khi nhiễm Vibrio.
- Tôm bị bệnh phân trắng thường giảm hoặc bỏ ăn, thời gian canh vó kéo dài. Cơ thể tôm phát triển không cân đối, mềm vỏ, ốp thân, thịt không đầy vỏ, lột xác dính vỏ, thân nhợt nhạt, vỏ sẩn sùi, thô ráp. Xuất hiện phân trong vó có màu trắng, trắng đục, vàng đục, phân nhão, dễ nát, dễ rã. Cuối góc ao phân trắng nổi trên mặt nước, gom tụ nhiều, sau quạt nước xuất hiện nhiều phân trắng nổi.
-Tôm bị nhiễm ký sinh trùng, thường có đường ruột zic zac. Đốt cuối có dấu hiệu sưng to, màu đục hạt gạo. Kết hợp các tác nhân cơ hội cộng gộp, tấn công liên tiếp, dẫn đến ruột tôm hư hại. Tôm tiết dịch tiêu hoá kém, dẫn đến sự lên men thức ăn trong ruột, trong quá trình tiêu hoá, dẫn đến phân trắng, hoại tử gan tuỵ. Kết hợp với điều kiện thuận lợi, vi khuẩn thuộc nhóm Vibrio cơ hội tấn công, làm cho gan tuỵ sưng, giảm khả năng tiết dịch tiêu hoá, gây teo hoặc nhũn gan tuỵ. Khi ruột hư hại, dẫn tới quá trình lên men thối, gan nhạt màu. Gan mất chức năng tiêu hoá, hấp thụ, khả năng dự trữ dinh dưỡng cũng như khả năng miễn dịch giảm. Dịch trong ruột tôm có màu trắng, vàng nâu, dần chuyển sang giai đoạn phân trắng.
- Ruột tôm mờ, ruột không đầy thức ăn, thức ăn trong ruột lẫn dịch lỏng, dịch di chuyển qua lại khi dùng tay bóp nhẹ thân tôm, đôi khi ruột trống, không có thức ăn. Tôm yếu, nhấc vó khỏi mặt nước ít búng nhảy, tôm phân đàn, rớt đáy số lượng tăng dần khi tỷ lệ tôm bị phân trắng tăng cao.
3. Phòng bệnh phân trắng:
- Kiểm soát Vibrio trong ao bằng cách luôn duy trì nồng độ thấp các chất hữu cơ, là nguồn dinh dưỡng cho Vibrio phát triển như: Quản lý lượng thức ăn ăn đúng nhu cầu và theo nhiệt độ nước, xi phông loại bỏ chất thải, duy trì mật độ tảo, sử dụng vi sinh phân hủy các chất hữu cơ đáy ao và nước;

- Cho ăn lượng thức ăn theo nhiệt độ nước: Khi nhiệt độ nước tăng cao > 320C, tôm thường ăn nhiều hơn nhưng thời gian thức ăn đi qua hệ thống tiêu hóa rất ngắn làm tăng lượng chất thải trong ao. Nhiệt độ cao cũng làm vi khuẩn phát triển nhanh hơn. Do vậy, khi nhiệt độ nước tăng cao, không tăng lượng thức ăn theo cách kiểm tra nhá thông thường;

- Bổ sung đầy đủ các chất tăng cường sức khỏe của tôm như vitamin và khoáng chất thiết yếu;

- Bảo quản tốt và kiểm tra hạn dùng của thức ăn, độ ẩm, nấm mốc;

- Kiểm soát tốt các loài tảo độc, độ kiềm trong ao;

- Luôn duy trì cân bằng hệ vi khuẩn có lợi trong ao bằng việc bổ sung thường xuyên vi sinh và duy trì hàm lượng oxy lớn hơn 5 ppm.
4. Điều trị:
- Khi điều trị phân trắng, bà con ngưng không cho cho tôm ăn 1-2 ngày. Thay 30 – 50% nước (nếu tôm còn khoẻ), tiến hành diệt khuẩn, diệt tảo độc trong ao nuôi bằng BKC, Iodine, H2O2, KMnO4. Chọn loại hoá chất phù hợp tình trạng ao nuôi, liều dùng tuỳ thuộc sức khoẻ tôm.

- Hỗ trợ thêm bón vôi cải thiện môi trường, bón Yucca kết hợp Zeolite và oxy hạt, hạn chế khí độc, bón chế phẩm sinh học gây lại hệ vi sinh có lợi trong ao. Dùng CaCO3, CaMg(CO3)2, NaHCO3 tăng kềm. Giữ ổn định pH bằng phèn nhôm Al2(SO4)3.14H2O, liều 5 kg phèn nhôm/1.000m3 nước.

- Điều trị phân trắng bằng thảo dược, bà con dùng lá trầu không, hạt cau, trâm bầu, trà xanh, đọt ổi, vỏ măng cụt, tinh tỏi... Xay nhuyễn các loại thảo dược, nấu thành nước hoặc gel…kết hợp Berberine, Carbomango, trộn vào thức ăn, liều lượng 10 – 20 ml/kg thức ăn (dạng nước), hoặc 5 – 10 g/kg thức ăn (dạng gel). Cho tôm ăn 5 ngày liên tục, mỗi ngày 3 – 4 lần ăn.
- Xổ ký sinh trùng cho tôm.

- Dùng các loại Kháng sinh như: Oxytetracycline, Amoxicillin , Cefotaxime...để điều trị. Lưu ý chỉ dùng loại kháng sinh được xác định đề điều trị với đúng chuẩn vi khuẩn, đúng tình trạng bệnh, dùng đúng liều và đúng thời gian điều trị để đạt hiệu quả và tránh tình trạng nhờn thuốc.

Address

Ho Chi Minh City

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Tổng Kho Thuốc Thủy sản - Telaco Việt Nam posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Practice

Send a message to Tổng Kho Thuốc Thủy sản - Telaco Việt Nam:

Videos

Share