Thế Giới Kỳ Bí

Thế Giới Kỳ Bí Thế Giới Kỳ Bí - Những Trải Nghiệm Tâm Linh

HÌNH ẢNH THẦY THÍCH MINH TUỆ ĐANG LÀM LUNG LAY CÁC "CÂY ĐA CÂY ĐỀ"  TRONG GIỚI TU SĨ.1) Trong lúc không ít vị tu sĩ cho ...
16/05/2024

HÌNH ẢNH THẦY THÍCH MINH TUỆ ĐANG LÀM LUNG LAY CÁC "CÂY ĐA CÂY ĐỀ" TRONG GIỚI TU SĨ.

1) Trong lúc không ít vị tu sĩ cho rằng phải đầu tròn, áo vuông, gương mặt trắng trẻo bóng láng, đến giảng đạo ở Đảo Kim Cương hay lên Youtube với hàng vạn view, thì Thích Minh Tuệ đang phong trần khất thực

2) Hình ảnh đầu đội trời, chân đạp đất trên khắp mọi nẻo đường đã làm lung lay những bước chân quen bước lên xe máy, xe hơi, máy bay sang trọng của nhiều vị tu sĩ.

3) Hình ảnh ba y phấn tảo được chắp, vá từ những mảnh vải lượm ở bãi rác, bãi tha ma, khiến cho những bộ hoàng y của nhiều tu sĩ bị lu mờ?

4) Hình ảnh chiếc "bình bát" được chế từ lõi nồi cơm điện vì sợ làm hoen ố hình ảnh bình bát của Phật, những bình bát mà rất nhiều tu sĩ dùng để nạp đầy những “món đồ” không đúng với Phật pháp”?

5) Hình ảnh từng bước chân an lạc, đi khắp mọi nẻo đường của tổ quốc, dưới trời mưa, giá lạnh hay nắng nóng 30-40 độ C chỉ để rèn luyện sức khỏe và học hỏi lối sống tàm quý, tri túc, biết đủ khiến cho vô số các tu sĩ quen hành cước trong các đạo tràng cao sang phải nhột nhạt?

6) Hình ảnh một ngày ăn một bữa trước ngọ, sau ngọ ai cho, ai tặng, ai cúng dường bất cứ thứ gì đều nhất quyết không nhận, cho dù một vật nhỏ đã khiến nhiều tu sĩ ngày ăn ba bữa, nhận đồ cúng dường phi thời, cảm thấy bị thương tổn vì quyền lợi đang bị thu nhỏ và đe doạ?

7) Hình ảnh ai cho tiền, nhét tiền, ép nhận tiền vào tay nhưng nhất quyết không nhận, vì nhận tiền là phạm giới, khiến cho không ít tu sĩ quen, thường nhận tiền, tìm mọi cách để nhận tiền của chúng sanh phải đổ mồ hôi hột?

8 ) Hình ảnh đắp y phấn tảo, an nhiên tự tại giữa bốn mùa nóng lạnh, kiết già qua đêm trong hang núi sâu, dưới rừng lá rậm, trong căn nhà hoang hay giữa bãi tha ma... khiến cho nhiều tu sĩ quen nằm giường cao, nệm đẹp, có máy điều hòa phải cảm thấy bất an?

9) Hình ảnh nụ cười an lạc luôn nở trên môi, từ bi cầu nguyện an lạc cho những chúng sanh ngay cả khi bị chúng sanh chửi bới, đánh đập, xua đuổi... Khiến không ít tu sĩ đã quen cảnh được chúng sanh khúm núm, xu nịnh, cung phụng... cảm thấy nhức nhối?

10) Luôn xưng con với tất cả chúng sanh - tự tại, vô ngại, vô ngã khiến không ít tu sĩ quen núp trong ảo tướng giả tạm đứng ngồi không yên?

11) Luôn phủ nhận mình là tu sĩ - vì không muốn làm mất đi hay làm ảnh hưởng tới hình ảnh tôn nghiêm, cao quý của Bổn Sư, bổn tự nơi mình xuất gia, mà chỉ khiêm hạ nhận mình là một công dân Việt Nam đang học thực hành theo hạnh nguyện của Phật khiến không ít tu sĩ và các cư sĩ cuồng tín tức tối?

12) Luôn pháp, lấy giới của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật làm Thầy, trang nghiêm trong từng bước chân, khiêm cung, lễ kính trước hết thảy chúng sanh khiến cho nhiều tu sĩ, cư sĩ lơ mơ về pháp, sao nhãng, khinh khi giới luật của Phật phải tức tối, hoảng sợ.

13) Luôn lấy Giới - Định - Huệ làm Thầy, làm nền tảng tu học, làm hành trang khuyến tấn hành giả, tùy duyên hóa độ chúng sanh khiến cho nhiều tu sĩ, cư sĩ quen tu giới định huệ trên sa lon, phòng lạnh đứng ngồi không yên, ăn ngủ không ngon, không yên giấc?
Sự xuất hiện hiện của thầy Thích Minh Tuệ đang làm sống lại hình ảnh của chư cổ Phật, của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, nhắc nhở, khuyến tấn chúng sanh đi theo con đường Bát Chánh Đạo để cùng nhau hướng về bến bờ giải thoát.

Mọi thủ đoạn sử dụng đám đông để trà trộn gây hỗn loạn, xây dựng kịch bản hãm hại, sử dụng công cụ truyền thông bôi xấu, dèm pha, chửi bới, hành vi nhục mạ Thích Minh Tuệ càng chứng tỏ một điều, đạo từ bi trí tuệ của Phật đang không ngừng tỏa sáng trên đất Việt.

(Nguồn Thiện Nhân, có hiệu chỉnh)

Ông Tùng Vân bị 5 năm tù vì tội nói sự thật và bị trả thù!Kẻ đứng sau đâm lưng ông Tùng Vân và hàng trăm báo chí dựng ch...
22/07/2022

Ông Tùng Vân bị 5 năm tù vì tội nói sự thật và bị trả thù!
Kẻ đứng sau đâm lưng ông Tùng Vân và hàng trăm báo chí dựng chuyện loạn luân, và hàng trăm ngàn con cừu bị dắt mũi chửi bới người ta: cũng đang chuẩn bị nhận bản án nặng hơn - bản án vô hình - luật nhân quả nghiệp báo!

Quẻ Dịch đầu năm Nhâm Dần. (xin phép được xóa phần luận giải đã đăng - thiên cơ bất khả lộ!)....Từ 2020-2023 được xem là...
12/02/2022

Quẻ Dịch đầu năm Nhâm Dần. (xin phép được xóa phần luận giải đã đăng - thiên cơ bất khả lộ!).
...

Từ 2020-2023 được xem là quãng 4 năm bản lề quan trọng, mỗi năm đều có những sự kiện lớn phát sinh, mắc xích cùng nhau, đỉnh điểm là năm 2023 - tạo ra tiền đề mạnh mẽ cho những phát triển theo hướng bền vững, đúng hướng cho hàng trăm năm sau này. Con người sẽ hiểu thế nào là tu thân - tu tâm - tu tuệ, biết thế nào là kính ngưỡng Thần Phật và không còn nhắm mắt chạy theo hư ảo như hiện nay!

Dị tượng xuất hiện tại Quảng Ngãi vào ngày 29/09/2021.
03/10/2021

Dị tượng xuất hiện tại Quảng Ngãi vào ngày 29/09/2021.

Tôi không phải là người giỏi tuân thủ kỉ luật.Tôi nhận thấy bí mật của bản thân rằng, mọi thứ tốt đẹp nhất sẽ đến với tô...
12/09/2021

Tôi không phải là người giỏi tuân thủ kỉ luật.
Tôi nhận thấy bí mật của bản thân rằng, mọi thứ tốt đẹp nhất sẽ đến với tôi đều dựa phần lớn từ cảm hứng. Khi có cảm hứng, tôi có thể làm tốt mọi thứ, hiểu được nhiều điều, nhận thêm năng lượng tốt đẹp.
Nguồn cảm ứng của tôi xuất phát từ đâu? Tôi cảm nhận được nó rất rõ ràng và sống động, nằm ở con tim, mỗi khi nó xuất hiện.
Ở những khoảnh khắc ấy, con tim tôi hoàn toàn điều khiển được khối óc, làm chủ tôi, chứ không phải ngược lại.
Nhưng cảm hứng trong tôi được khơi dậy từ tác động ở bên ngoài, tôi thật sự chưa biết cách tự tạo cảm hứng từ bên trong.
Những yếu tố nào từ các câu chuyện bên ngoài có thể giúp tôi khơi dậy cảm hứng: là những điều tốt đẹp, từ những anh hùng, những phẩm chất cao quý, cao thượng.
Mỗi khi con tim làm chủ: nó điều khiển trí óc, lấn át những suy nghĩ xấu xa, đem lại những điều tốt đẹp nhất trong tôi. Nhờ đó tôi có thể làm và tạo ra những thứ tốt đẹp, có giá trị.
Làm sao để tự mình tạo ra nguồn cảm hứng vô tận, mà không còn phải dựa vào yếu tố từ bên ngoài? Không còn phải vay mượn cảm hứng từ bên ngoài?
Tôi cần phải tìm ra bí mật của thiền định nhằm kích hoạt cảm hứng vô tận từ chính con tim của mình.
Mỗi khi con tim tôi làm chủ, tôi luôn thấy sáng suốt hơn, làm chủ mình hơn, gần đấng sáng thế và tạo hóa hơn, xa rời cái xấu nhất, mọi suy nghĩ không tốt đẹp sẽ tự nhiên biến mất.
Mỗi khi con tim tôi làm chủ, tham sân si sẽ tự bỏ đi, không còn nơi để trú ngụ trong tôi.
Và mỗi khi con tim tôi làm chủ, cảm hứng lại đến, những phẩm chất cao quý và tốt đẹp cũng đến đầy ắp: lòng vị tha - lòng trắc ẩn, yêu thương, lòng biết ơn, trí tuệ và dũng khí.
Không có tham thì sẽ không còn những mong cầu sai lầm, những dục vọng tầm thường.
Không có sân thì không còn tức giận, không dễ nổi nóng, không còn mầm móng cho thù hận, đố kị.
Không có si thì không còn u mê, xét đoán, nhỏ nhen, lặt vặt.
Chỉ mỗi khi cảm hứng tìm về ngự trị trong con tim tôi và tôi cảm nhận được rõ ràng, sống động, mạnh mẽ nhất, đó chính là lúc tôi hiểu về tôi nhất - tôi chính là tôi.
Nếu cảm hứng là lửa thì con tim chính là bó đuốc.
Tôi cần phải thiền định để giữ bó đuốc sáng lửa mãi, hoặc là tôi có thể tự mình thắp sáng ngọn lửa này khi muốn mà không phải nhờ bên ngoài.
Đây cũng là khám phá bên trong tôi cùng quá trình tu luyện để giữ giới và đem lại trí huệ thông qua thiền định. Giới - Định - Tuệ.

LS, 12/09/2021.

Mưa đá rằm tháng 7 AL ở sài gòn là hiện tượng nghịch thiên Có nhiều loại thiên tượng báo điềm xấu như: tinh tượng xung p...
23/08/2021

Mưa đá rằm tháng 7 AL ở sài gòn là hiện tượng nghịch thiên
Có nhiều loại thiên tượng báo điềm xấu như: tinh tượng xung phạm, dịch châu chấu, hạn hán, nhiệt độ quanh năm thất thường, mưa đá, tuyết mùa hè, dịch bệnh, nạn đói, chim thú dị hành, thiên thạch rơi…
Các dị tượng mưa thiên thạch, mưa đá, chim bay lùi đều là dấu hiệu của đảo lộn âm dương ở nhân gian, là hiện tượng xấu từ ông Trời giáng xuống, đồng thời cũng là điềm báo cho một kết cục chẳng lành.
Nhìn thấy các dấu hiệu của hung tượng, các bậc thánh nhân, minh quân sẽ thành khẩn và sợ hãi suy ngẫm về những lỗi lầm của bản thân, đồng thời nghiêm khắc sửa mình. Nếu không thể thành tâm sám hối sửa chữa mà quy kết tai họa cho thiên tai, đó chính là làm lẫn lộn đầu đuôi, kết cục tạo nghiệp đền nghiệp trong tương lai gần là không thể xoay chuyển được. Thiên nhân tương ứng, Trời gieo thiên tượng, lịch sử hiển hiện, báo ứng không sai.
Nhìn thấy thiên tượng, các bậc tu đạo/ bậc kỳ nhân/ người được khai nhãn ắt hẳn sẽ biết phải làm gì.
Thân tặng những anh em đồng môn vài câu, hữu duyên ắt hiểu:
Sợ Trời kính Phật,
Đọc sách Thánh Hiền,
An nhiên thiền định,
Khai trí tịnh tâm,
Tiêu mầm dục lạc,
Chờ ngày Quy Tông,
Long Hoa mở hội,
Trợ Thánh giúp đời.
(Lâm San, 23/08/2021)

Khác nhau giữa Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa 1. Điểm chung giữa Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừaSự phân chia này không ...
16/06/2021

Khác nhau giữa Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa

1. Điểm chung giữa Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa

Sự phân chia này không phải do mâu thuẫn về tổ chức hay quyền lợi, địa vị mà do khác biệt trong quan điểm về giáo lý, giới luật.

Cả hai Tiểu thừa và Đại thừa đều bắt nguồn từ vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni, nhưng khác nhau nơi sự quan tâm về thực hành giáo pháp và tư tưởng.(sa. sarvasattva). Hình tượng tiêu biểu của Đại thừa là Bồ Tát (sa. bodhisattva) với đặc tính vượt trội là lòng bi (sa., pi. karuṇā). Bộ kinh được xem là kinh văn Đại thừa đầu tiên là Bát-nhã bát thiên tụng

Ở Việt Nam - một trong những trung tâm phát triển sớm của Phật giáo thế giới, chứng kiến sự phát triển của cả hai trường phái Tiểu thừa và Đại thừa.

Với tư tưởng nhân văn, “từ bi hỉ xả”, bình đẳng giữa các chúng sinh, khuyên con người làm việc thiện, tránh điều ác... Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa đều đã nhanh chóng đi vào lòng người, được đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình, hưởng ứng và gắn liền với mỗi giai đoạn phát triển của quốc gia, dân tộc.

2. Sự khác nhau Tiểu thừa và Đại thừa

2.1. Phật giáo Tiểu thừa

Phái Tiểu (Hyayana) thừa được truyền bá ra nhiều nơi, từ Xri Lanka đến Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam… Quá trình phát triển của phái Tiểu thừa cũng chia thành nhiều chi phái, tiêu biểu như Thành thực tông, Luật tông, Câu xá tông…

+ Phái Tiểu thừa nghĩa là “con đường cứu vớt nhỏ” hoặc “cỗ xe nhỏ”.

+ Theo phái Phái Tiểu thừa chỉ có Thích Ca là Phật duy nhất.

+ Chỉ những người xuất gia tu hành mới được cứu vớt. Phái này cho rằng những người theo Tiểu thừa phải tự giác ngộ, tự giải thoát cho bản thân mình, không thể giải thoát cho người khác.

+ Tiểu thừa quan niệm rằng sinh tử luân hồi và niết bàn là hai phạm trù khác biệt nhau, chỉ khi nào con người thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi thì mới lên được Niết Bàn. Niết Bàn là cõi hư vô, là nơi đã giác ngộ, ở đó không còn khổ não. Phật tổ là người đầu tiên đạt tới Niết Bàn.

+ Bảo vệ sự tuân thủ nghiêm ngặt của giáo quy, bám sát các giáo điều của đạo Phật nguyên thủy.

Theo các môn đồ Tiểu thừa thì phái này đại diện cho học thuyết thuần khiết và khởi thủy như những gì mà Phật đã thuyết giảng. Những quan niệm của nó chủ yếu dựa vào các kinh ghi lại lời dạy của Phật tổ, quy tắc kỷ luật tu hành dựa vào Luật tạng.

2.2. Phật giáo Đại thừa

Phái Đại thừa (Mahayana) nghĩa là “con đường cứu vớt lớn”, “cỗ xe lớn” được gọi là tôn giáo cải cách.

Phật giáo Đại thừa được truyền bá đến nhiều nơi trên thế giới, trước hết là các nước châu Á. Từ Ấn Độ truyền sang Tây Tạng rồi vào Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam... Trong quá trình đó, phái Đại thừa cũng chia thành nhiều chi phái, tiêu biểu có Pháp tương tông, Tam luận tông, Hoa nghiêm tông, Mật tông, Tịnh độ tông, Thiền tông.

+ Giáo lý Đại thừa có nhiều cái mới so với đạo Phật nguyên thủy.

+ Họ cho rằng không chỉ những người xuất gia tu hành mà cả những phật tử cũng được cứu vớt.

Vì vậy, chủ trương người theo đạo Phật Đại thừa không chỉ giải thoát, giác ngộ cho bản thân mà còn có thể giúp nhiều người cùng giải thoát, giác ngộ. Đại thừa chủ trương mỗi người có thể đến Niết Bàn chỉ bằng sự cố gắng của mình, đồng thời chủ trương giải thoát đông đảo cho nhiều người.

+ Họ quan niệm rằng sinh tử luân hồi và Niết Bàn không phải là hai phạm trù khác biệt, ngay trong quá trình tồn tại (quá trình sinh tử) cũng có thể đạt được Niết Bàn. Theo phái Đại thừa, Niết bàn là nơi cực lạc, là thế giới của các vị Phật, giống như Thiên đường của các tôn giáo khác.

+ Phái Đại thừa không chỉ thừa nhận Thích Ca là Phật mà còn thừa nhận nhiều Phật khác như Phật Adiđà, Phật Di Lặc, Phật Đại Dược Sư... Ai cũng có thể trở thành Phật và thực tế đã có nhiều người thành Phật như Văn Thù Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát...

Với quan niệm đó, những chùa theo Phái Đại thừa thờ nhiều tượng Phật.

Bồ Tát cũng là đối tượng được thờ cúng. Bồ Tát là những người đã đạt được sự hoàn thiện bằng tu luyện, đáng được lên Niết bàn song tự nguyện ở lại trần gian để cứu độ chúng sinh. Trong các vị đó, Quan Âm Bồ Tát được kính trọng nhất.

3. Hiểu thế nào cho đúng về Tiểu thừa và Đại thừa

Thời kỳ Phật giáo Nguyên Thủy cho đến thời kỳ Bộ phái (sau Ðức Phật 400 năm) chưa có danh từ Ðại thừa hay Tiểu thừa. Vốn không có phân biệt Tiểu thừa và Đại thừa. Phật pháp là một vị thuần nhất. Chỉ do đối tượng thuyết pháp không giống nhau cho nên nội dung và cảnh giới thuyết pháp cũng khác nhau mà thôi.

Danh từ Tiểu thừa nên hiểu là Thượng tọa bộ và Thuyết nhất thiết hữu bộ. Ngày nay chỉ còn 2 hệ Tiểu thừa này có mặt trên thế giới.

Từ ít lâu nay người ta có khuynh hướng tránh dùng từ ngữ "Tiểu thừa" vì từ này được dùng bởi những người không hiểu rõ căn bản Đạo Phật và mang tính miệt thị. Do đó, 2 danh từ Phật giáo Bắc Tông và Phật giáo Nam Tông được dùng để phổ biến thay thế.

Giáo lý được phân làm hai truyền thống theo địa lý, truyền thừa, và được gọi là Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Nam Tông.

Phật giáo Bắc Tông theo khuynh hướng phát triển lời Phật, còn Phật giáo Nam Tông theo khuynh hướng bảo thủ (giữ nguyên giá trị) lời dạy của Đức Phật và các vị Thánh Tăng thuyết trong 5 bộ Kinh Nikāya.

Truyền thống Bắc Tông và Nam Tông có những khác biệt, tuy nhiên, những khác biệt ấy không cơ bản. Trái lại, những điểm tương đồng lại rất cơ bản như sau:

+ Cả hai đều nhìn nhận Ðức Phật Thích ca là bậc Ðạo sư.

+ Cả hai đều chấp nhận và hành trì giáo lý Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Duyên khởi...; đều chấp nhận pháp ấn Khổ, Không, Vô ngã; đều chấp nhận con đường tu tập: Giới-Ðịnh-Tuệ.

Tóm lại, Kinh tạng Nguyên Thủy, hiện nay có 5 bộ, là tập hợp những lời dạy nguyên thủy nhất của Đức Phật là kinh tạng ghi chép lại những lời Phật thuyết và Thánh chúng một cách đầy đủ nhất. Kinh tạng này mang tính thiết thực gần gũi với tâm lý con người và sự sinh hoạt của xã hội Ấn Độ. Ðây là cơ sở giáo lý mà chúng ta lấy làm nền tảng cho mọi nghiên cứu, thực tập.

Không nên chê bai Tiểu Thừa hạ liệt, căn cơ yếu kém nhưng nên hiểu rằng, trải qua hơn 400 năm khẩu truyền và hơn 2000 năm truyền bá, kinh giáo không tránh khỏi sự thêm bớt của người thụ trì, nghĩa là vẫn không mang tính Nguyên Thủy "thuần túy".

Mặc dù vậy, Đạo Phật có Tứ Diệu Đế là chân lý rốt ráo cùng tột và 3 pháp ấn là 3 chân lý không thể nào chối cãi là "Các pháp hữu vi là Khổ, Vô Thường, Vô Ngã" và pháp vô vi là Vô Ngã. Người học Phật cần phải soi sáng mọi lời dạy xem coi nó có mâu thuẫn với Tứ Diệu Đế và Tam Pháp Ấn hay không? Nếu mâu thuẫn thì nên cẩn thận trước những tư tưởng của người khác.

Truyền thuyết “ông Năm Chèo” sông Vàm NaoVùng đất Thất Sơn (An Giang) luôn ẩn chứa những huyền thoại, đặc biệt là dấu ấn...
06/06/2021

Truyền thuyết “ông Năm Chèo” sông Vàm Nao

Vùng đất Thất Sơn (An Giang) luôn ẩn chứa những huyền thoại, đặc biệt là dấu ấn của những vị đạo sĩ, bậc chơn tu. Câu chuyện lưu truyền về vị đạo sĩ nuôi sấu thần Năm Chân (Năm Chèo) luôn cuốn hút khách thập phương. Chúng tôi làm một chuyến hành trình về Bảy Núi tìm sự thật, nơi bắt nguồn của những huyền thoại “ông Năm Chèo” và “bảo bối” được dòng họ lưu giữ.

Câu chuyện về “ông Năm Chèo” được truyền miệng khắp vùng với nhiều tình tiết ly kỳ. Để hiểu rõ thực hư, chúng tôi tìm gặp hậu duệ của người nuôi con sấu lạ năm xưa. Đó là bà Hồ Thị Cưng, cháu ngoại đời thứ tư của ông Đình Tây (đạo sĩ Bùi Văn Tây, đệ tử thứ ba của Đức Phật Thầy). Bà Cưng đang trông coi nơi thờ tự ông Đình cũng như năm bảo bối mà Đức Phật Thầy giao cho bắt sấu Năm Chèo.

Dựa theo những câu chuyện lưu truyền trong gia tộc, bà Cưng kể rằng, vâng lời Đức Phật Thầy, ông Đình Tây chuẩn bị chuyến đi hành thiện. Khi ông tới vùng láng (Láng Linh), biết được trong căn chòi lụp xụp kia có một phụ nữ chuyển bụng sắp sinh con, gia cảnh đáng thương. Người chồng hàng ngày lặn lội bắt cua, rùa, rắn đổi gạo, thường khi anh về sớm nhưng hôm đó anh không về kịp. Ông Đình Tây xông xáo cùng mọi người làm vách che, lợp lại mái dột ngăn mưa gió. Người phụ nữ sắp sinh nhưng chiếc giường mới kê được ba chân, ông không ngại kề vai làm chân giường giúp bà mụ đỡ đẻ nhanh chóng. Mọi việc xong xuôi thì anh Xinh, chồng người phụ nữ về tới, rất cảm kích về sự giúp đỡ của mọi người. Anh khoe với ông Đình Tây hai giỏ cá vừa bắt được để lo cho vợ vượt cạn, rồi móc từ túi bên hông ra một con vật nhỏ. Đó là con sấu rất kỳ lạ, da nó trơn bóng chứ không sần sùi, chót mũi có màu đỏ rực, đặc biệt con sấu có thêm bàn chân mọc ra từ chân bình thường (móng đeo). Ông Đình thấy hình dạng con sấu kỳ lạ nên thích thú, anh Xinh liền tặng con sấu này. Ông về trình với Đức Phật Thầy những việc hành thiện và cho ngài xem con sấu lạ. Vừa nhìn thấy, ngài thở dài và bảo ông Đình không nên nuôi con ngặc ngư này, nó là loài nghiệt thú sẽ làm điều hại bá tánh. Nhưng ông Đình thương xót không nỡ, sau đó lui về đình Thới Sơn, lén nuôi sấu nhỏ ở góc hồ sen trước sân đình. Thấy sấu lớn nhanh, ông lấy dây cột chân nó lại. Càng lớn con sấu càng có tính khí hung bạo, ông liền thay bằng sợi dây xích bằng sắt để nó không thoát được.

Một đêm trời đổ mưa to, gió quất mạnh, cây cối ngả nghiêng, sấm chớp liên hồi. Rạng sáng ông Đình giật mình phát hiện: con sấu bỏ đi! Ông lội xung quanh nhưng không tìm thấy, trở lại kiểm tra sợi xích, thấy vẫn còn nguyên. Ông lần theo sợi dây xuống hồ, bất ngờ nhìn thấy một bàn chân sấu bỏ lại cùng với sợi xích. Nó cắn bỏ một bàn chân để thoát thân. Ông Đình lập tức bẩm báo Đức Phật Thầy. Ngài điềm nhiên như tiên đoán trước điều gì, không quở trách mà còn trao cho ông Đình năm món bảo bối gồm hai cây lao, một cây mun cổ phụng, một lưỡi câu và một đường dây băng. Đồng thời, ông Đình còn được truyền “khẩu quyết biệt truyền” để thu phục ngặc ngư.

Rồi một ngày tin dữ lan truyền, con sấu mũi đỏ khổng lồ xuất hiện nơi anh Xinh đã bắt nó khi xưa. Nó to như một chiếc ghe lớn, nổi lên tạo những cơn sóng lớn nhấn chìm xuồng ghe của những người xuôi ngược trên sông. Có lúc nó lên bờ bắt heo, gà nuôi trong chuồng của dân, lúc sát hại người, gây biết bao nỗi kinh hoàng. Ông Đình vội vã gặp Đức Phật Thầy xin thu phục con nghiệt thú, nhưng khi ông đến nơi là sấu lặn mất. Cứ thế nhiều lần, hễ ông về thì sấu lại nổi lên quấy phá làm kinh hồn dân làng. Có người thấy sấu nổi lên liền gọi thất thanh tên ông Đình thì sấu tháo chạy. Một lần, ông Đình quyết tâm ở lại chờ bắt sấu cho bằng được nhưng ngày qua vẫn không thấy sấu xuất hiện. Ông đứng giữa vùng láng kêu lớn: “Hỡi loài ngặc ngư, nếu thiên cơ được định, ngươi nên nằm yên sám hối tu hành, còn nếu số ngươi đã tận thì mau nổi lên theo ta về”.

Ông Đình chờ đến ba ngày vẫn không thấy bóng dáng con sấu đâu, nhưng mãi từ đó về sau, không nghe ai kể sấu nổi lên quấy phá dân làng nữa. 58 năm sau, đến ngày ông Đình viên tịch (1914), năm món bảo bối vẫn chưa được sử dụng. Đến nay, trải qua 96 lần lễ giỗ ông Đình, những bảo bối ấy vẫn còn cất giữ.

Bà Cưng cho chúng tôi xem năm bảo bối được Đức Phật Thầy giao cho ông Đình năm xưa, được lộng vào khung kiếng, thờ cúng trang nghiêm. Bà Cưng kể thêm, bảo bối này dòng họ cất giữ cẩn thận qua mấy cuộc chiến tranh, tất cả còn khá nguyên vẹn, riêng sợi dây băng (xe bằng tơ), ngày trước ông nội bà lấy sợi dây này ra kéo quanh nhà, sau đó chạy giặc, trở về thấy nhà cửa cháy rụi, riêng sợi dây chỉ ám khói chứ không cháy. Có người kể rằng, khi Đức Cố Quản Trần Văn Thành bại trận tại vùng Bảy Thưa, nhằm mùa nước nổi, quân Pháp bao vây bắn phá, trước mặt lau sậy dày đặc ghe chống đi không được. Lúc ấy, sấu khổng lồ bỗng nhiên lao tới, rẽ đường rạp sậy cho quân lính chống xuồng thoát thân.

Tại đình Thới Sơn, ông Lê Văn Nhưng, phó ban quản lý đình, khẳng định với chúng tôi ông Đình Tây từng ở đình này, tên thật là Bùi Văn Tây, quê ở Năng Gù (nay là xã Bình Mỹ, huyện Châu Phú, An Giang). Ông được giao quản lý đình nên dân quen gọi là Đình Tây. Ông Nhưng dẫn chúng tôi ra xem hồ sen, nơi trước đây ông Đình Tây đã thả nuôi “sấu thần”. Hồ khá rộng, nay đã được xây bờ kè kiên cố, xung quanh cây cối mát mẻ.

Hơn 100 năm qua nhưng dân gian vẫn truyền nhau những câu chuyện thực hư về “ông Năm Chèo”. Họ cho rằng, “sấu thần” đang ẩn mình trên sông Vàm Nao (nối liền sông Tiền và sông Hậu, dài khoảng 7 km). Sông này có nhiều vực sâu, búng lớn, nước xoáy mạnh. Nơi đây được xem là ngư trường khai thác thủy sản quan trọng, là nơi thường xuyên xuất hiện các loài cá khổng lồ.
Có lẽ không có gì lạ khi những huyền thoại như thu phục mãnh hổ và nuôi cá sấu năm chèo vẫn còn sống động ở vùng sông nước Cửu Long, nơi vùng đất mới hoang sơ mà những con người đặt chân khai phá và sinh sống ở đây luôn mang ước vọng phải chinh phục muôn loài để khẳng định cái vị thế làm chủ đất trời của mình.

Sấm Giảng: Phật Giáo Hòa Hảo (P2)Khuyên Người Đời Tu Niệm - Đoạn 1Hạ nguơn nay đã hết đời,  Phong ba biến chuyển đổi dời...
15/02/2021

Sấm Giảng: Phật Giáo Hòa Hảo (P2)

Khuyên Người Đời Tu Niệm - Đoạn 1

Hạ nguơn nay đã hết đời,

Phong ba biến chuyển đổi dời gia cang.

Năm Mèo Kỷ-Mão rõ ràng,

Khắp trong trần hạ nhộn nhàng xiết chi.

Ngồi buồn Điên tỏ một khi,

Bá gia khổ-não vậy thì từ đây.

Cơ trời thế cuộc đổi xây,

Điên mới theo Thầy xuống chốn phàm-gian.

Thấy đời ly-loạn bất an,

Khắp trong các nước nhộn-nhàng đao binh.

Kẻ thời phụ nghĩa bố-kình,

Nguời thời trung-hiếu chẳng gìn vẹn hai.

Nên Điên khuyên-nhủ bằng nay,

Xin trong lê-thứ ngày rày tỉnh tâm.

Cơ thâm thì họa diệc thâm,

Nào trong sách sử có lầm ở đâu.

Người khôn nghe nói càng rầu,

Người ngu nghe nói ngửa đầu cười reo.

Rồi sau sẽ thấy hùm beo,

Khắp trong bá tánh hiểm-nghèo đáng thương.

Điên nầy vưng lịnh Minh-Vương,

Với lịnh Phật đường đi xuống giảng dân.

Thấy trong bá tánh phàm trần,

Kẻ khinh người nhạo Thần Tiên quỉ tà.

Mặc ai bàn tán gần xa,

Quỉ của Phật Bà sai xuống cứu dân.

Kẻ xa thì mến đức-ân,

Làm cho người gần ganh-ghét khinh khi.

Nam mô, mô Phật từ-bi,

Miệng thì niệm Phật lòng thì tà-gian.

Khắp trong bá-tánh trần-hoàn,

Cùng hết xóm làng đều bỉ người Điên.

Điên nầy xưa cũng như ai,

Vào các ra đài tột bực giàu-sang.

Nghĩ suy danh-lợi chẳng màng,

Bèn lên ẩn dật lâm san tu-trì.

Nhờ Trời may mắn một khi,

Thẩn-thơ lại gặp Đức Thầy Bửu-Sơn.

Cúi đầu Điên tỏ nguồn-cơn,

Động lòng bác-ái ra ơn dạy truyền.

Thấy Điên tâm tánh quá thiềng,

Nội trong sáu khắc biết liền Thiên-cơ.

Chuyện nầy thôi nói sơ-sơ,

Để rộng thì giờ nói chuyện chơn-tu.

Dương-trần kẻ trí người ngu,

Ham võng ham dù danh-lợi xuê-xang.

Cờ đà đến nước bất an,

Chẳng lo tu niệm tham gian làm gì.

Phật, Trời thương kẻ nhu-mì,

Trọng cha, yêu Chúa kính vì tổ-tông.

Ngồi buồn nói chuyện bông-lông,

Khắp trong trần-hạ máu hồng nhuộm rơi.

Chừng nào mới đặng thảnh-thơi,

Dậu Phật ra đời thế-giới bình-yên.

Điên nầy Điên của Thần-Tiên,

Ở trên Non Núi xuống miền Lục-Châu.

Đời còn chẳng có bao lâu,

Rán lo tu-niệm đặng chầu Phật-Tiên.

Thế-gian ít kẻ làm hiền,

Nhiều người tàn-bạo làm phiền Hoá-Công.

Thế-gian chuyện có nói không,

Đến hội Mây-Rồng thân chẳng toàn thây.

Việc đời đến lúc cấn gay,

Mà cũng tối ngày nói xéo nói xiên.

Dương-trần tội ác liên miên,

Sau xuống huỳnh-tuyền Địa-ngục khó ra.

Điên nầy nói việc gần xa,

Đặng cho lê-thứ biết mà lo tu.

Tu cho qua cửa Diêm-phù,

Khỏi sa Địa-ngục ngao du Thiên-đài.

Đường đời chẳng có bao dai,

Nên viết một bài cho bá-tánh coi.

Tuồng đời như pháo châm ngòi,

Bá-gia yên lặng mà coi Khùng này.

Khùng thời ba Tớ một Thầy,

Giảng dạy dẫy-đầy rõ việc Thiên-cơ.

Điên đây còn dại còn khờ,

Yên-lặng như tờ coi chúng làm sao.

Bá-gia kẻ thấp người cao,

Chừng thấy máu đào chúng mới chịu tu.

Bây giờ giả dại giả ngu,

Cũng như Nhơn-Quí ở tù ngày xưa.

Lúc nầy kẻ ghét người ưa,

Bị Điên nói bừa những việc vừa qua.

Dương-trần biếm nhẻ gần xa,

Nói quỉ nói tà đây cũng cam tâm.

Ngồi buồn nhớ chuyện xa-xăm,

Dạo trong Bảy-Núi cười thầm sư-mang.

Nói rằng lòng chẳng ham sang,

Sao còn ham của thế-gian làm gì ?

Việc nầy thôi quá lạ kỳ,

Cũng trong Phật-Giáo sao thì chê khen.

Lúc nầy tâm trí rối beng,

Tiếng quyển tiếng kèn mặc ý bá-gia.

Hết gần rồi lại tới xa,

Dân-sự nhà nhà bàn tán cười chơi.

Chuyện nầy cũng lắm tuyệt-vời,

Giả như Hàn-Tín đợi thời lòn trôn.

Đến sau danh nổi như cồn,

Làm cho Hạng-Võ mất hồn mấy khi.

Chuyện xưa thanh-sử còn ghi,

Khen anh Hàn-Tín vậy thì mưu cao.

Chuyện đời phải có trước sau,

Điên Khùng khờ dại mà cao tu hành.

Bá gia phải rán làm lành,

Niệm-Phật cho rành đặng thấy Thần-Tiên.

Thương đời trong dạ chẳng yên,

Khắp trong lê-thứ thảm phiền từ đây.

Ngày nay thế-cuộc đổi xây,

Rán lo tu niệm đặng Thầy cứu cho.

Mảng theo danh-lợi ốm-o,

Sẵn của hét hò đứa ở người ăn.

Đừng khi nhà lá một căn,

Mà biết niệm Phật sau bằng bạc muôn.

Giàu sang như nước trên nguồn,

Gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ.

Cửu-Huyền Thất-Tổ chẳng thờ,

Để thờ những Đạo ngọn cờ trắng phau.

Dương-trần bụng dạ nhiều màu,

Thấy cảnh bên Tàu sao chẳng nghĩ suy.

Lời xưa người cổ còn ghi,

Những việc lạ kỳ nay có hay chưa ?

Chưa là với kẻ chẳng ưa,

Chớ người tâm đạo biết thừa tới đâu.

Bá-gia mau kíp lo âu,

Để sau đối đầu chẳng đặng toàn thây.

Việc đời nói riết thêm nhây,

Nếu muốn làm Thầy phải khổ phải lao.

Mèo kêu bá tánh lao-xao,

Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê.

Con ngựa lại đá con dê,

Khắp trong trần-hạ nhiều bề gian-lao.

Khỉ kia cũng bị xáo-xào,

Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng.

Nói ra nước mắt rưng-rưng,

Điên biểu dân đừng làm dữ làm hung.

Việc đời nói chẳng có cùng,

Đến sau mới biết đây dùng kế hay.

Bây giờ mắc việc tà-tây,

Nên mới làm vầy cho khỏi ngại-nghi.

Thiên cơ số mạng biết tri,

Mà sao chẳng chịu chạy đi cho rồi ?

Những người giả đạo bồi-hồi,

Còn chi linh-thính mà ngồi mà nghe.

Việc đời như nước trong khe,

Nó tưởng đặt vè nói biếm người hung.

Điên nầy nối chí theo Khùng,

Như thể dây dùn đặng cứu bá-gia.

Sau nầy kẻ khóc người la,

Vài ba năm nữa biết mà tà-tinh.

Điên biết chẳng lẽ làm thinh,

Nói cho bá-tánh mặc tình nghe không.

Việc Điên, Điên xử chưa xong,

Lục-Châu chưa giáp mà lòng ủ-ê.

Người nghe đạo lý thì mê,

Kẻ lại nhún trề nói: Lão kiếm cơm.

Thấy nghèo coi thể rác-rơm,

Rồi sau mới biết rác-rơm của Trời.

Vì Điên chưa đến cái thời,

Nên còn ẩn dạng cho người cười chê.

Từ đây sắp đến thảm-thê,

Con lìa cha mẹ, vợ kia xa chồng.

Tới chừng đến việc ngóng-trông,

Trách rằng Trời Phật không lòng từ-bi.

Di-Đà lục tự rán ghi,

Niệm cho tà-quỉ vậy thì dang ra.

Khuyên đừng xài phí xa-hoa,

Ăn cần ở kiệm đặng mà lo tu.

Đừng khinh những kẻ đui-mù,

Đến sau sẽ khổ gấp mười mù-đui.

Đời nay xét tới xem lui,

Chừng gặp tuổi Mùi bá-tánh biết thân.

Tu-hành sau được đức-ân,

Nhờ Trời ban bố cho gần Phật Tiên.

Nói ra trong dạ chẳng yên,

Điên gay chèo quế dạo miền Lục-Châu.

Tới đâu thì cũng như đâu,

Thêm thảm thêm sầu lòng dạ người xưa.

Bá gia ai biết thì ưa,

Tôi chẳng nói thừa những việc Thiên-cơ.

Khi già lúc lại trẻ thơ,

Giả quê giả dốt khắp trong thị thiềng.

Đi nhiều càng thảm càng phiền,

Lên doi xuống vịnh nào yên thân Già.

Tay chèo miệng lại hát ca,

Ca cho bá-tánh biết đời loạn-ly.

A-Di-Đà Phật từ bi,

Ở bên Thiên-Trước chứng tri lòng nầy.

Từ ngày thọ giáo với Thầy,

Dẹp lòng vị-kỷ đầy lòng yêu dân.

Ngày nay chẳng kể tấm thân,

Miễn cho bá-tánh được gần Bồng-Lai.

Đời này vốn một lời hai,

Khắp trong trần-hạ mấy ai tu trì.

Đời nầy giành-giựt làm chi,

Tới việc ly-kỳ cũng thả trôi sông.

Sấm Giảng: Phật Giáo Hòa Hảo (P1)Thay Lời Tựa: Sứ-mạng Của Đức Thầy(do chính tay Ngài viết)Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mão, v...
15/02/2021

Sấm Giảng: Phật Giáo Hòa Hảo (P1)

Thay Lời Tựa: Sứ-mạng Của Đức Thầy

(do chính tay Ngài viết)
Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mão, vì thời-cơ đã đến, lý Thiên-Đình hoạch-định, cuộc nguy-cơ thảm-họa sắp tràn lan. Ta đây tuy không thể đem phép huệ-linh mà cứu an tai-họa chiến-tranh tàn khốc do loài người tàn-bạo gây nên, nhưng mà thử nghỉ : Sinh trong vòng đất Việt-Nam nầy, trải qua bao kiếp trong địa-cầu lăn-lộn mấy phen, tùy cơ pháp chuyển kiếp luân-hồi ở nơi hải-ngoại để thu-thập những điều đạo-học kinh-nghiệm huyền-thâm, lòng mê-si đã diệt, sự vị-kỷ đã tan mà kể lại nguồn gốc phát sinh, trãi bao đời giúp nước vùa dân cũng đều mãi sinh-cư nơi đất Việt. Những tiền kiếp dầu sống cũng là dân quan đất Việt, dầu thác, cũng qủi thần đất Việt chớ bao lìa. Những kiếp gần đây, may-mắn gặp minh-sư cơ truyền Phật-Pháp, gội nhuần ân-đức Phật, lòng đã quảng-đại từ-bi, hềm vì nỗi cảnh quốc phá, gia vong, máy huyền-cơ đã định, lòng thương trăm họ vướng cảnh, đồ lao, chi xiết xót thương chúng sanh vạn khổ.

Nghĩ lúc còn làm người trong biển tục, lăn-lộn chốn mê đồ, mà chẳng quản thân giúp thế cứu dân, vong thân vị quốc, huống chi nay cơ mầu đà thấu tỏ, sớm chiều hầu chơn Phật nghe kinh, ngao du tứ-hải, dạo khắp Tiên-bang, cảnh an-nhàn của người liễu-đạo, muôn ngày vô sự, lóng sạch phàm tâm, sao chẳng ngồi nơi ngôi vị hưởng quả bồ-đề trường thọ mà còn len-lỏi xuống chốn hồng-trần, đặng chịu cảnh chê khen ? Vì lòng từ-ái chứa-chan, thương bách-tính tới hồi tai-họa. Phật-Vương đà chỉ rõ máy diệu huyền chuyển lập hội Long-Hoa, chọn những đấng tu hành cao công quả để ban cho xứng vị xứng ngôi, người đủ các thiện-căn để giáo truyền Đại-Đạo, định ngôi phân thứ gây cuộc Hòa-Bình cho vạn quốc chư bang.

Thiên-Tào đà xét định, khắp chúng sanh trong thế-giới trong cái buổi Hạ-Nguơn nầy, say mê vật-dục, chìm đắm trong biển lợi-danh, gây nên nghiệp-quả, luật trời đà trị tội xét kẻ thiện-căn thì ít, người tội-ác quá nhiều, chư Phật mới nhủ lòng từ-bi cùng các vị chơn Tiên lâm phàm độ thế, trước ra công cứu khổ, sau chỉ rõ cơ-huyền, khuyên kẻ thế hướng thiện quày đầu, cải tà qui chánh thì mới mong Thiên Đình ân xá bớt tội căn để kíp đến Long-Hoa chầu Phật, trước biết rõ luật Trời thưởng phạt, cùng hữu duyên nghe Phật pháp nhiệm mầu, kiến diện bậc Chơn-Sư, tu hành mau đắc quả, sau làm dân Phật quốc hưởng sự thái-bình, bởi đời nầy pháp-môn bế mạc, Thánh đạo trăn vu, người tâm trí tối đen, đời lắm Ma-Vương khuấy rối. Ta là một trong các vị cứu đời ấy. Ai liễu Đạo nơi quốc-độ nào thì cũng phải trở về quốc-độ ấy mà trợ tế nhân dân; vì thể lòng từ-bi bác-ái cùng thù đáp những linh hồn đã trợ duyên trong nhiều kiếp giúp Ta nương cậy tu hành, nên ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mão, Ta hóa hiện ra đời cứu độ chúng sanh. Tuy là nhơn-dân mới rõ pháp mà tưởng rằng Ta thượng xác cỡi đồng chớ có dè đâu chuyển kiếp đã từ lâu chờ đến ngày ra trợ thế. Nên phương pháp của Ta tùy trình-độ cơ cảm của Tín-nữ Thiện-nam, trên thì nói Phật-pháp cho kẻ có lòng mộ Đạo qui căn, gây gốc thiện-duyên cùng Thầy Tổ, dưới dùng huyền-diệu của Tiên-gia độ bịnh để cho ít căn lành nhờ được mạnh mà cảm lòng từ-bi của Chư Vị với Trăm Quan, thảm-thiết lê dân lầm than thống-thiết, mà lời lành nghe tựa hồ như nhớ như quên, nên kẻ xa xuôi từ-văn chẳng tới, người láng-diềng tiếng kệ nhàm tai. Đến trung tuần tháng tám, Ta cùng Đức-Thầy mới tá hiệu Khùng Điên, mượn bút mực tiết lộ lấy Thiên-cơ, truyền cho kẻ xa gần đều rõ biết hầu ăn-năn cải quá làm lành, còn kẻ chẳng tỉnh tâm sau đền tội cũng chẳng trách Phật Tiên không chỉ bảo.

Vẫn biết đời Lang-sa thống trị, phép nước nghiêm-hình, dân chúng nếu yêu thương sẽ lắm điều hiềm khích : Nhưng mà Ta nghĩ nhiều tiền kiếp Ta cũng hy-sinh vì Đạo, nào quản xác thân. Kiếp chót nầy đây há lại tiếc chi thân phàm tục, song vì tình cốt-nhục tương thân, cũng ủng-hộ, chở che cho xác phàm bớt nỗi cực hình.
Bạc-Liêu, ngày 18-5 Nhâm-Ngũ (1942)

Address

Thủ đức
Ho Chi Minh City
700000

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Thế Giới Kỳ Bí posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share

Share on Facebook Share on Twitter Share on LinkedIn
Share on Pinterest Share on Reddit Share via Email
Share on WhatsApp Share on Instagram Share on Telegram