17/10/2023
Trong phạm vi một môi trường như bệnh viện, sự hợp tác giữa các bộ phận là điều cần thiết để dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân đạt tới hiệu quả, đây không phải là một sự lựa chọn mà là một yêu cầu. Mỗi bác sĩ hay tâm lý gia, y tá đều cần phải tham gia vào công việc của mình cùng với mọi người, mỗi người có thể từ các góc độ khác nhau, với vai trò khác nhau, nhưng tinh thần hợp tác cần giống nhau.
Rất rõ ràng để hiểu, khi bác sĩ tâm thần truyền đạt quan điểm và sự lựa chọn ưu tiên thông qua lăng kính tâm thần, quan điểm và góc nhìn của nhà trị liệu tâm lý cũng sẽ được mở rộng. Ngược lại, khi nhà trị liệu tâm lý truyền đạt quan điểm và những liệu pháp mà họ cho rằng cần được ưu tiên thông qua lăng kính của tâm lý trị liệu, thì đồng thời quan điểm và góc nhìn của bác sĩ tâm thần cũng mở rộng, củng cố.
Sự chăm sóc hợp tác lấy bệnh nhân làm trung tâm sẽ được thể hiện rõ hơn khi các bệnh nhân nhận được sự điều trị mà họ cảm thấy rằng họ đang nhận được sự quan tâm chu đáo từ cả một tập thể, đảm bảo mọi mặt về chuyên môn, mọi người đang cùng thảo luận để giúp đỡ họ.
SỰ CẦN THIẾT TRONG HỢP TÁC GIỮA BÁC SĨ TÂM THẦN VÀ TÂM LÝ GIA NHẰM TỐI ƯU HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ & CHĂM SÓC BỆNH NHÂN
___________________________________________________
Sẽ ra sao nếu một bác sĩ tâm thần cho rằng sự xuất hiện của một tâm lý gia lâm sàng ở bệnh viện của họ là không cần thiết, và ngược lại. Nếu có, với một vài thảo luận bên dưới, chúng tôi nghĩ rằng nó nên được xem xét là một quan điểm lỗi thời và phản khoa học nghiêm trọng:
Để có sự hợp tác trong chăm sóc bệnh nhân, hiểu hợp tác là gì rất quan trọng. Sự hợp tác chăm sóc bệnh nhân ở đây liên quan đơn thuần đến việc chia sẻ quan điểm và lắng nghe, chứ không nhất thiết phải là một thỏa thuận hoặc tranh cãi (rằng anh đúng, tôi sai). Mỗi một bác sĩ, y tá, tâm lý gia đều chắc chắn mang theo những kinh nghiệm, quan điểm, kiến thức và kỹ năng của riêng mình. Tuy nhiên, trong phạm vi một môi trường như bệnh viện, sự hợp tác giữa các bộ phận là điều cần thiết để chăm sóc sức khỏe hiệu quả, đây không phải là một sự lựa chọn mà là một yêu cầu. Mỗi bác sĩ hay tâm lý gia, y tá đều cần phải tham gia vào công việc của mình với mọi người, có thể từ các góc độ khác nhau, nhưng tinh thần hợp tác cần giống nhau. Rất rõ ràng để hiểu, khi nhà trị liệu tâm lý truyền đạt quan điểm và những phương án mà họ cho rằng cần được ưu tiên thông qua lăng kính của tâm lý trị liệu, thì đồng thời quan điểm và góc nhìn của bác sĩ tâm thần cũng mở rộng, củng cố. Ngược lại, khi bác sĩ tâm thần truyền đạt quan điểm và sự lựa chọn ưu tiên thông qua lăng kính tâm thần, quan điểm và góc nhìn của nhà trị liệu tâm lý cũng sẽ được mở rộng. Thông qua những kinh nghiệm quan sát lâm sàng, tác giả nhận thấy kết quả điều trị hiệu quả hơn khi có sự kết nối và chia sẻ giữa bác sĩ tâm thần và tâm lý gia, sự kết nối không chỉ ở góc độ quan điểm mà còn cả trách nhiệm khi họ cùng hợp tác để cung cấp dịch vụ chăm sóc tối ưu nhất có thể cho bệnh nhân (Edwards, 2019).
Tiếp theo, xem xét nhiều dẫn chứng khoa học hơn cho thấy hiệu quả của các mô hình chăm sóc hợp tác lấy bệnh nhân làm trung tâm có thể giúp cho bệnh nhân cảm thấy rằng họ đang nhận được sự quan tâm chu đáo từ cả một tập thể, bệnh nhân thấy rằng mọi người đang thảo luận để giúp đỡ họ tốt nhất có thể. Một nghiên cứu định tính gần đây của Rugkåsa và cộng sự (2020) đã cho thấy những lợi ích của mô hình chăm sóc hợp tác cho sức khỏe tâm thần, khi có sự chăm sóc hợp tác, các bác sĩ và các chuyên gia khác như nhà tâm lý lâm sàng có thể tiếp cận với nhau một cách chi tiết về vấn đề của bệnh nhân, tăng cường lấy bệnh nhân làm trung tâm khi làm việc trong cùng một môi trường đã tạo điều kiện cho sự hợp tác chặt chẽ và liên tục dựa trên nhu cầu cá nhân của bệnh nhân, sự giao tiếp liên tục được thiết lập vì vậy đã tạo ra một sự giao tiếp gần gũi và sâu sắc hơn giữa bệnh nhân và các chuyên gia. Tiếp đó, nghiên cứu này cũng phát hiện ra rằng khi có nhiều chuyên gia có kinh nghiệm chăm sóc cho bệnh nhân cùng lúc sẽ giúp họ nhanh chóng nắm được sâu sát các diễn biến về mặt triệu chứng mà họ không thể đủ thì giờ để quan sát khi làm việc một mình cũng như họ có thể cùng nhau thảo luận chuyên môn khi tiếp xúc trực tiếp với nhau để đóng góp cho công việc điều trị hiệu quả nhất (Rugkåsa và cộng sự, 2020).
Tầm quan trọng của sự hợp tác giữa các bác sĩ tâm thần và tâm lý gia không chỉ được các nghiên cứu chứng minh, ngay cả khi chúng ta xét tới quan điểm thực hành lâm sàng hiện đại nhất là quan điểm thực hành dựa trên bằng chứng (Evidence-base Practice – EBP). Cả hai ngành y khoa hiện đại và tâm lý học hiện đại ngày nay trên thế giới đều vô cùng chú trọng tầm quan trọng của xu hướng thực hành lâm sàng dựa trên bằng chứng. Y học dựa trên bằng chứng (Evidence-based medicine - EBM) với các bác sĩ tâm thần được hiểu là việc sử dụng tận tâm, rõ ràng và thận trọng các bằng chứng khoa học tốt nhất hiện tại trong việc đưa ra quyết định về việc chăm sóc từng bệnh nhân (Sackett và cộng sự, 1996) và Tâm lý học dựa trên bằng chứng (Evidence-Based Practice in Psychology – EBPP) với các nhà trị liệu tâm lý được hiểu là sự tích hợp của nghiên cứu tốt nhất hiện có với chuyên môn lâm sàng trong bối cảnh đặc điểm, văn hóa và sở thích của bệnh nhân (APA Presidential Task Force on Evidence-Based Practice, 2006). Các hướng dẫn thực hành dựa trên bằng chứng gần đây nhất của APA cũng khuyến nghị rằng liệu pháp tâm lý nên được cung cấp cho bệnh nhân trong các chẩn đoán như tâm thần phân liệt, rối loạn trầm cảm chủ yếu và rối loạn lưỡng cực. Hơn thế nữa, các yêu cầu của chương trình năm 2020 của Hội đồng Kiểm định Giáo dục Y khoa Sau đại học (ACGME) yêu cầu người một bác sĩ nội trú tâm thần phải thành thạo trong việc sử dụng các phương pháp trị liệu tâm lý khác nhau (Tadmon & Olfson, 2022).
Cuối cùng, hãy xem xét một số nghiên cứu sâu sắc hơn về tính hiệu quả của điều trị dược lý và điều trị tâm lý đối với một rối loạn phổ biến và quen thuộc nhất - trầm cảm. Bằng chứng khoa học từ rất lâu đã cho thấy rằng các can thiệp tâm lý, mà đặc biệt là liệu pháp hành vi nhận thức (CBT), cũng hiệu quả tương đương như thuốc trong điều trị trầm cảm, ngay cả với trầm cảm nghiêm trọng; hơn nữa, nếu chỉ điều trị bằng thuốc, nguy cơ tái phát trầm cảm sẽ cao hơn (Antonuccio và cộng sự, 1995). Một kết quả nghiên cứu khác trên tạp san Arch Gen Psychiatry từ nhà xuất bản JAMA lừng danh, đã cho thấy trong điều trị trầm cảm, việc điều trị kết hợp giữa thuốc và liệu pháp tâm lý liên quan đến hiệu quả điều trị cao hơn so với việc chỉ điều trị bằng thuốc đơn thuần; chính vì có sự can thiệp bằng liệu pháp tâm lý, đã giúp bệnh nhân có thể tuân thủ việc sử dụng thuốc hơn và giúp giữ cho họ tiếp tục tuân thủ điều trị (Pampallona et al., 2004). Cho đến nay, khi tiếp tục nghiên cứu, các nhà khoa học vẫn cho thấy một kết quả tương tự; nghiên cứu của Karyotaki và cộng sự (2016) đã cho thấy trong điều trị cho những bệnh nhân trầm cảm nặng thì kết hợp liệu pháp tâm lý với việc sử dụng thuốc không những mang lại hiệu quả vượt trội hơn mà còn mang lại một hiệu quả bền vững lâu dài hơn so với việc chỉ điều trị bằng thuốc đơn thuần và giúp những bệnh nhân tuân thủ điều trị hơn (Karyotaki et al., 2016). Việc thông qua tâm lý trị liệu giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị còn đặc biệt quan trọng với điều trị rối loạn lưỡng cực, việc không tuân thủ điều trị ở các bệnh nhân rối loạn lưỡng cực luôn là một nan đề được ghi nhận bởi các bác sĩ, chúng ta đều biết tính chất mãn tính và tính chất chu kỳ của rối loạn lưỡng cực có thể làm cho bệnh nhân không tuân thủ điều trị và khó hợp tác, nhưng thông qua can thiệp của các tâm lý gia, giúp bệnh nhân hiểu được bản chất của rối loạn lưỡng cực họ đang có và sự quan trọng của việc tuân thủ điều trị là lớn và mang ý nghĩa như thế nào đối với việc điều trị. Nghiên cứu của Vieta (2005) đã cho thấy thông qua can thiệp giáo dục tâm lý cho các bệnh nhân có rối loạn lưỡng cực đã giúp họ có sự cải thiện trong việc tuân thủ điều trị và các kết quả lâm sàng khác, bao gồm giảm các pha hưng cảm và giảm số lần nhập viện (Vieta, 2005). Và nghiên cứu gần đây của Miklowitz và cộng sự (2021) trên tạp chí tâm thần học hàng đầu thế giới - JAMA Psychiatry đã cho thấy rằng khi kết hợp điều trị dược lý với tâm lý trị liệu (như trị liệu nhận thức hành vi, trị liệu hệ thống gia đình, liệu pháp giữa các cá nhân, hoặc giáo dục tâm lý) có thể giúp giảm tái phát các pha lưỡng cực và ổn định tốt hơn các triệu chứng trầm cảm khi so với chỉ điều trị bằng thuốc (Miklowitz và cộng sự, 2021). Cuối cùng, không chỉ giới hạn ở trầm cảm hay rối loạn lưỡng cực, mà có đầy đủ những bằng chứng khoa học trên thế giới cho thấy ở hầu hết các rối loạn, việc điều trị kết hợp giữa dược lý và tâm lý luôn là một ưu tiên để tăng hiệu quả điều trị và sự chăm sóc tối ưu cũng như lợi ích cho bệnh nhân; thậm chí ngay cả với bệnh nhân tâm thần phân liệt (Kingdon và cộng sự, 2007; Valencia và cộng sự, 2013)
Qua một vài thảo luận trên, có thể thấy sự hợp tác trong môi trường chăm sóc sức khỏe tinh thần mà cụ thể là sự hợp tác giữa các bác sĩ tâm thần và tâm lý gia là rất cần thiết và là một hướng đi khoa học, nhằm mang lại hiệu quả điều trị tối ưu và sự chăm sóc tốt nhất cho các bệnh nhân. Các bác sĩ tâm thần hay các tâm lý gia nên luôn ý thức giữ cho bản thân một góc nhìn đầy sự phản tư khoa học, có lẽ sẽ là một tư duy thiếu tiến bộ và thậm chí phản khoa học khi cố gắng đưa ra một mệnh đề so sánh nào đó cố gắng chứng minh “ai quan trọng hơn” khi làm việc trong môi trường chăm sóc sức khỏe tinh thần – nơi mà y đức và sự khiêm tốn sẽ thể hiện sự trưởng thành trong nghề nghiệp.
Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực TP.HCM là cơ sở y tế công lập trực thuộc Bộ Y Tế.
Địa chỉ: 152 – 154 Hồng Bàng, Phường 12, Quận 5, TP.HCM.
Số Điện thoại liên lạc của chúng tôi: 028.3956.2133