Y Học Cổ Truyền- Châm Cứu

Y Học Cổ Truyền- Châm Cứu - Khám- Tư vấn điều trị.
- Điện châm.
- Vật lý sau châm.

22/03/2024

Nhân sâm, loại dược liệu quý có công dụng trợ tim và tăng tuổi thọ.

Nhân sâm có nhiều tác dụng như tiếp thêm sinh lực cho hệ thần kinh trung ương, cải thiện chức năng tim mạch và điều trị ung thư.

Báo lỗi
Khi sử dụng đúng cách, nhân sâm bổ trợ cho tim, thị lực, tâm trạng, nhận thức và thậm chí làm tăng tuổi thọ.
Panax Ginseng, hay Nhân sâm, đúng như tên gọi là một loại thuốc chữa bách bệnh (panacea) có lợi cho sức khỏe. Panax ginseng, trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “chữa lành mọi vết thương” và có cùng nguồn gốc với từ “panacea.” Y học hiện đại đã xác nhận nhiều lợi ích của nhân sâm, bao gồm cải thiện chức năng tim, não và điều trị ung thư.
Có thể bạn đã biết dùng nhân sâm dưới dạng trà hoặc hầm với mục đích khác nhau. Tuy nhiên, bạn có biết nên dùng bao nhiêu nhân sâm? Khi nào nên dùng? Ai không nên dùng nhân sâm? Bài viết sẽ trả lời những câu hỏi này.

Nhân sâm ngự trị ở vị trí “tối cao” trong Trung y – được mệnh danh là “linh của vạn loại thảo mộc, trưởng trăm loại thuốc.” Tác phẩm sớm nhất về Trung y, “Thần Nông Bản Thảo Kinh” ghi lại sáu tác dụng chính của nhân sâm, bao gồm bổ sung năng lượng cho các cơ quan nội tạng, ổn định tâm trạng, cải thiện hồi hộp, tăng thị lực, tăng nhận thức và trí nhớ. Dùng lâu dài sẽ giúp trường thọ.

Người Trung Hoa cổ xưa tin rằng nhân sâm là vị thần đến từ đất nên còn được gọi là “thổ tinh” hay “địa tinh.” Sách “Bản Thảo Cương Mục” của Lý Thời Trân đời nhà Minh đã trích dẫn một câu chuyện như sau.

Vào thời trị vì của Tùy Văn Đế (581-604 sau Công Nguyên), một người đàn ông thường nghe thấy tiếng khóc hàng đêm từ phía sau nhà mình nhưng không tìm thấy ai. Sau đó, người này phát hiện ra một loại cây có cành và lá tươi tốt bất thường cách phía sau nhà mình khoảng 500m. Ông đào xuống và tìm thấy một nhánh nhân sâm có hình dáng giống con người với đầy đủ tứ chi. Sau đó, ông ta không còn nghe thấy những tiếng kêu lạ nữa.

Tính vị, quy kinh, công hiệu và chủ trị.

Trung y cho rằng mỗi loại thuốc đều có tính chất, hương vị tương ứng với kinh lạc và nhân sâm cũng không ngoại lệ. Nhân sâm có vị ngọt và hơi đắng, khi dùng sống có tính bình, tức là dược tính ôn hòa. Nhân sâm khi dùng chín có tính ôn và có tác dụng bổ ích nguyên khí hiệu quả. Trung y gọi năng lượng trong cơ thể con người là “khí” và “nguyên khí” dùng để chỉ động lực tự nhiên của mọi hoạt động sinh lý của con người.
Trung y tin rằng cơ thể con người có một hệ thống “kinh tuyến” qua đó năng lượng từ các cơ quan nội tạng chảy khắp cơ thể. Về mặt này, nhân sâm chủ yếu đi theo các kinh tâm, phế, tỳ và thận, với một phần nhỏ nằm trong kinh can (gan) và có tác dụng chữa bệnh trên tất cả các cơ quan và bộ phận dọc theo đường đi này.

Theo các ghi chép Trung y, nhân sâm chủ yếu điều trị các triệu chứng đổ mồ hôi nhiều, nôn mửa và tiêu chảy nghiêm trọng, mất máu ồ ạt, phân lỏng, mệt mỏi, suy nhược, sa hậu môn và sa các tạng do tiêu hao sinh lực kéo dài.
Sáu lợi ích của nhân sâm đối với cơ thể con người

(Ảnh: Sáu lợi ích của nhân sâm đối với cơ thể con người.)
Vậy y học hiện đại giải thích thế nào về công dụng của nhân sâm?

1. Điều hòa hệ thần kinh trung ương
Nhân sâm có thể điều chỉnh chức năng thần kinh, cải thiện khả năng nhận thức và hiệu suất, giúp vượt qua mệt mỏi, cải thiện tình trạng suy nhược thần kinh và đau đầu do mạch máu.

2. Cải thiện hệ tim mạch
Nhân sâm có thể tiếp thêm sinh lực cho tim, cải thiện nhịp tim kém và rối loạn nhịp tim.
Các nghiên cứu đã phát hiện thấy ginsenoside có nhiều ảnh hưởng lên chức năng tim mạch, bao gồm điều hòa huyết áp và lipid máu cũng như bảo vệ các tế bào nội mô mạch máu.
Nhân sâm có thể làm giãn mạch máu và cải thiện lưu thông máu. Do đó, nếu bệnh nhân đột quỵ có các triệu chứng cứng chân tay, khó chịu về thể chất và thể trạng suy yếu, tức là cơ thể yếu và không đủ máu, có thể dùng nhân sâm để cải thiện lưu thông máu trong tim và các mạch máu xung quanh.
Ngoài ra, nhân sâm còn có tác dụng chống sốc, có thể tăng đáng kể nhịp tim nên đặc biệt hữu hiệu đối với sốc mất máu và sốc nhiễm độc cấp tính.

3. Tăng khả năng thích ứng của cơ thể
Nhân sâm có thể thay đổi khả năng thích ứng của cơ thể và nâng khả năng phòng vệ trước các chất có hại. Nhân sâm thích hợp dùng cho tình trạng tăng đường huyết do ăn uống không kiểm soát, hạ đường huyết do insulin và biến chứng nhồi máu cơ tim do sốc tim.

4. Hoạt hóa hệ thống nội tiết

Các nghiên cứu đã phát hiện thấy nhân sâm có thể kích hoạt tuyến yên và hệ vỏ thượng thận, thúc đẩy sự tiết ra corticosteroid và tăng khả năng chống lại stress của cơ thể.
Các nghiên cứu cũng phát hiện thấy ginsenoside có tác dụng tương tự như hormone sinh dục, phù hợp cho các bệnh rối loạn chức năng tình dục và còn có thể cải thiện các triệu chứng mãn kinh.
5. Điều hòa quá trình trao đổi chất
Nhân sâm có thể thúc đẩy quá trình tổng hợp protein và phân chia tế bào tủy xương, đồng thời có tác dụng hiệp đồng trong việc hạ đường huyết và insulin. Nhân sâm cũng thúc đẩy quá trình chuyển hóa lipid, giảm cholesterol và ngăn ngừa xơ vữa động mạch.

6. Chống khối u
Nhân sâm cũng có tác dụng tốt đối với bệnh ung thư dạ dày, ruột và các bệnh ung thư khác. Các nghiên cứu đã cho thấy rằng ginsenosides trong nhân sâm có thể ức chế sự di căn của tế bào ung thư, ức chế sự tân sinh mạch và phát triển khối u, đồng thời gây ra quá trình tự chết theo chương trình của tế bào ung thư.
Theo The Epoch Times.
Lương Y: Mai Nhân Hậu.
Số điện thoại: 0908707473.

Người xưa có câu: “Rượu thơm không sợ ngõ sâu, vàng thật không sợ lửa luyện.” Thời Trung Quốc cổ đại, nhiều thầy thuốc d...
15/11/2023

Người xưa có câu: “Rượu thơm không sợ ngõ sâu, vàng thật không sợ lửa luyện.” Thời Trung Quốc cổ đại, nhiều thầy thuốc dân gian ẩn thân ở vùng nông thôn, sống trong những căn nhà dân dã nơi thôn làng, làm bạn cùng dân nghèo. Có người gặp người nghèo khó thì bố thí, có người chữa bệnh mà không cần thù lao, thậm chí ngay cả tiền thuốc cũng đều không tính. Y thuật của họ so với các ngự y trong cung đình thì không hề thua kém, nhưng họ luôn xem nhẹ danh lợi, một lòng giải trừ nỗi thống khổ bệnh tật và nỗi ưu sầu về tính mạng cho bách tính.

Nhìn khí sắc của một người, có thể dự đoán thời điểm tử vong

Từ Tất Đạt, tự Đức Phu, người huyện Tinh Tử, tỉnh Giang Tây (nay là thành phố Lư Sơn). Hầu hết mọi người trong huyện thành nơi ông sống đều thông hiểu kinh học, mà gia đình ông cũng nhiều đời hành nghề y. Từ Tất Đạt được kế thừa bí thuật Tiên phương do tổ tiên truyền lại, chữa bệnh cho mọi người xuất thần nhập hóa. Ông chỉ cần quan sát khí sắc của bệnh nhân, liền có thể phán đoán được tình trạng bệnh cũng như kỳ hạn sinh tử của họ.

Có một ngày, ông gặp một người quen trên đường. Vừa nhìn khí sắc của người đó, ông liền nói với anh ta: “Sức khỏe của anh có vấn đề, hãy khẩn trương tìm thầy thuốc khám đi. Nếu không, tính mạng của anh sẽ gặp nguy hiểm!” Người đó không tin, ông lại nói tiếp: “Nếu bây giờ không đi, thì sau nửa tháng, anh sẽ chỉ nằm trên giường không dậy nổi. Khi ấy cho dù Biển Thước sống lại cũng không có cách nào cứu được.” Vị kia nói một cách chiếu lệ: “Được rồi, được rồi,” sau đó quay người rời đi. Hơn mười ngày sau, quả nhiên anh ta đột nhiên phát bệnh nặng, vừa mới bị bệnh đã không dậy được.

Ad

Một lần khác, Từ Tất Đạt đang ở trong một nhà thuốc thì một người nông dân chạy đến gặp ông. Hôm đó trời nắng gắt, người kia nói: “Em dâu tôi đang cấy lúa trên đồng, đột nhiên ngất xỉu vì nắng nóng. Xin ông kê cho tôi một đơn thuốc!” Từ Tất Đạt nhìn kỹ anh ta, rồi nói: “Em dâu anh bệnh, lát nữa tôi cho một hộp thuốc thì có thể qua khỏi. Nhưng mà tình huống của anh hiện tại còn tệ hơn cô ấy rất nhiều. Anh quay về nhanh lên nhé. Tôi sợ anh ngã trên đường và không quay về kịp.” Người kia nghe vậy, vội vã quay về.

Khi Từ Tất Đạt vừa đi đến ngoài đồng, thì nghe được tin người đàn ông kia vừa về đến nhà thì đột nhiên ngã gục xuống đất không dậy được. Có người hỏi ông nguyên do là gì, ông trả lời: “Người đàn ông này ăn trưa quá no. Khi nghe tin em dâu bị say nắng, anh ta vội vàng chạy tìm tôi. Anh ta chạy một hơi mấy dặm, khiến ruột bị đứt rồi. Khi tôi gặp mặt, giữa lông mày của anh ta đã hiện lên màu đen đậm. Đây chính là dấu hiệu cho thấy ruột đã bị đứt và khó giữ nổi mạng sống.”

Nhìn khí sắc của một người, liền có thể chữa trị những căn bệnh lạ

Khuất Tuân Đức, tự Minh Cổ, người ở thôn Lưu, trấn Cổ Lạt, Quảng Tây. Ông học tập Nho gia từ khi còn nhỏ, sau khi đỗ khoa thi vào năm Càn Long thứ 51, ông được triều đình ủy phái đến huyện Nghi Sơn dạy học và phụ trách việc dạy bảo sinh đồ ở trường huyện. Thường ngày ông thích đọc sách, có kiến thức sâu rộng, đối với các sách kinh, sử, tử, tập, không có gì là không thông hiểu. Cho dù là những cuốn y thư vô cùng thâm thúy, khó hiểu, ông cũng có thể đọc hiểu những huyền ảo ở trong đó. Thế nên, trong khi chuẩn bị cho kỳ khoa khảo, thì y thuật của ông cũng đã đạt được nhiều bước tiến.

Ông nhìn khí sắc của một người, liền có thể biết được tình trạng sức khỏe của người đó như thế nào. Có vị Quận thủ ở Quảng Tây, con trai ông ta đã sáu tuổi mà chưa biết tự đi. Đứa trẻ này xanh xao vàng vọt, khí sắc luôn không tốt. Quận thủ đã mời hàng trăm thầy thuốc đến chữa trị cho con, nhưng tình hình không chút cải thiện.

Ad

Khuất Tuân Đức đến đó, vừa nhìn đứa trẻ, liền mỉm cười và nói với Quận thủ: “Lệnh lang không có gì nghiêm trọng, hoàn toàn không cần uống thuốc.” Quận thủ nghe vậy càng băn khoăn hơn, bèn hỏi: “Vậy, chúng tôi không cần làm gì cả sao?” Khuất Tuân Đức đáp: “Từ giờ trở đi, ngài hãy đặt cậu ấy xuống đất, không để người hầu bế, ẵm cậu bé nữa. Cũng không cần cho cậu bé những món ăn ngon mỹ vị nữa. Tốt nhất là để cậu bé nhịn đói vài bữa, như vậy sẽ nhanh khỏi hơn.”

Quận thủ nghe xong, liền theo lời dặn dò gia nhân. Chỉ trong vài ngày, khuôn mặt của cậu bé trở nên sáng bóng, ăn uống ngày càng tốt. Sau một tháng, cậu đã có thể tự đi lại. Cậu bé bước đi nhẹ nhàng, rất có tinh thần, khỏe khoắn hơn trước rất nhiều.

Quận thủ vui mừng và đem rất nhiều bạc để thưởng cho Khuất Tuân Đức, nhưng ông khéo léo từ chối. Quận thủ mời ông đến nhà dùng cơm, tự đáy lòng nói với Khuất Tuân Đức: “Đại ân đại đức của ngài đối với nhi tử, tại hạ sẽ không bao giờ quên. Chỉ là, tôi thực sự muốn biết, làm thế nào ngài có thể ‘vô vi mà trị’ lại khiến đứa trẻ hồi phục nhanh như vậy?”

Khuất Tuân Đức trả lời: “Kể ra thì vẫn là vì ngài quá cưng chiều hài tử. Ngày thường, lúc nào cũng sợ hài tử vấp ngã, đụng chạm, thậm chí không để hài tử tự đi lại. Hạ nhân lúc nào cũng ẵm bế, khiến cậu bé trong suốt nhiều năm không đụng chạm đến một chút khí đất. Ngài biết đấy, dạ dày là một trong những tạng khí quan trọng nhất của cơ thể con người, nó thuộc về Thổ trong ngũ hành. Thiếu khí đất sẽ dẫn đến khí dạ dày không đủ, biểu hiện trên thân hài tử này chính là thân thể gầy yếu, đi không vững, lại ăn uống không được. Bây giờ đi bộ nhiều trên mặt đất thì có thể bổ sung khí đất. Chỉ cần để ngũ hành tương sinh, thì không cần uống thuốc nữa. Ngài nhìn xem, con của các gia đình nghèo thiếu ăn thiếu mặc, nhưng luôn trông khỏe mạnh hơn con của những gia đình giàu có. Nếu sinh ra trong gia đình giàu có, lại được nuôi dưỡng quá nuông chiều và an nhàn, thì những đứa trẻ như thế rất dễ bị bệnh.”

Quận thủ nghe xong thì không khỏi khâm phục. Ông nói với Khuất Tuân Đức: “Người ta nói chữa bệnh cho người chỉ là tiểu năng tiểu thuật. Không ngờ trong đây lại hàm chứa một đạo lý vô cùng thâm sâu. Ngài có thể hiểu thấu đáo những điều này, chẳng trách y thuật của ngài xuất thần nhập hóa như vậy!” Từ đó, Quận thủ và Khuất Tuân Đức thường xuyên liên lạc và trở thành bằng hữu thân thiết.

Về sau, qua nhiều lần tiến cử của Quận thủ, Khuất Tuân Đức được tuyển vào Thái Y Viện làm quan. Đến lúc nhiệm kỳ của ông vừa mãn hạn, triều đình chuyển ông trở về huyện Nghi Sơn, để ông giữ chức Huyện lệnh.

Ba vị thầy thuốc thời nhà Thanh giỏi y thuật như Thần, nhìn khí sắc của một người liền biết tình trạng bệnh của họ. (Ảnh: Fotolia)
Ba vị thầy thuốc thời nhà Thanh giỏi y thuật như Thần, nhìn khí sắc của một người liền biết tình trạng bệnh của họ. (Ảnh: Fotolia)
Nhìn diện mạo của một người, có thể biết nguyên nhân sinh bệnh

Chu Bân, tự Đại Nhã, người huyện Cao An, tỉnh Giang Tây. Từ nhỏ ông đã thuộc làu kinh điển Nho gia, lớn lên thì bắt đầu chuẩn bị tham gia ứng thí khoa khảo. Một đêm nọ, ông nằm mơ thấy mình có tên trên bảng vàng trong khảo thí y khoa. Sau đó, vì có người chí thân trong nhà bị bệnh nặng, ông ngày đêm nấu canh sắc thuốc, hầu hạ bên giường bệnh. Chu Bân vừa cố gắng trị bệnh cho người khác, lại vừa đọc các loại y thư, nghiên cứu sâu về y đạo. Thời gian lâu, y thuật của ông đã trở nên phi thường. Chỉ cần nhìn khí sắc của một người, nghe tiếng nói của họ, ông liền có thể biết được căn nguyên bệnh của người này, và có còn hy vọng chữa trị hay không.

Một ngày nọ, ông đến nhà một người phụ nữ để khám và chữa trị cho con của bà. Đứa trẻ nằm trên giường, thở dốc không ra hơi. Lúc này, Chu Bân sai người mang một ít bùn màu vàng bôi lên người bệnh nhân. Không lâu sau, lớp bùn vàng kia dần dần khô đi, đứa trẻ đã lấy lại được hơi thở. Đến lúc uống thêm một liều thuốc sắc, cháu bé đã có thể tự mình rời khỏi giường.

Ad

Còn có một góa phụ nhờ ông chữa trị cho cậu con trai duy nhất của bà ấy. Cháu bé này gầy như que củi, vốn đã gầy yếu, giờ lại cảm thấy khó chịu trong bụng. Đứa trẻ đột nhiên ngã xuống bất tỉnh nhân sự. Chu Bân nhìn thoáng qua, nói: “Đây là do trường kỳ ăn da heo khô gây ra. May mà cậu bé còn đang ngủ mê man, nếu đến ngày thứ bảy mà cháu đột nhiên mở mắt ra thì sẽ không thể chữa khỏi.” Chu Bân lấy một lượng nhỏ thạch tín, và để giảm độc tính, ông dùng lửa nung nó một chút. Sau đó, ông đem thạch tín đã nung, bỏ vào thang thuốc sắc và cho cháu bé uống. Rất nhanh, đứa trẻ đã tỉnh lại.

Chu Bân rất nổi tiếng ở địa phương, nhưng một số người trong gia tộc lại không tin phục. Để thăm dò y thuật của ông, người trong gia tộc đã tìm một người hầu gái và bảo cô giả vờ điên. Cô gái đó điên điên khùng khùng, vừa chạy vừa nhảy. Một lúc sau, Chu Bân được mời đến. Ông nhìn qua cô hầu gái, sau đó nói: “Cô gái này vốn không bị bệnh, nhưng bây giờ cô ấy đã ăn no mà không nghỉ ngơi, còn nhảy lên nhảy xuống. Đã nhảy thời gian lâu như thế, ruột của cô ấy đã bị đứt rồi, không thể chữa khỏi.” Sau một lúc, người hầu gái quả nhiên ngã xuống đất không thể dậy được.

Chu Bân hành nghề y trong nhiều thập niên. Qua bàn tay kỳ diệu của ông, số người được khỏi bệnh, cải tử hoàn sinh, thực sự không thể tính đếm. Ông chữa bệnh cho mọi người mà không nhận thù lao. Những năm cuối đời, ông sống ẩn dật trong sơn dã và hiếm khi xuất hiện. Sau khi một vị Huyện lệnh biết chuyện, đã tự tay viết bốn chữ: “Sơn trung Tể tướng” và làm một bức hoành phi gửi tặng ông. Soái Quang Tổ, tiến sĩ, nhà thơ thời Càn Long, cũng viết về ông, gọi ông là một vị lương y cứu tế thế nhân quy ẩn nơi thôn dã, tạo phúc cho bách tính.

Trình Sĩ Siêu, hiệu là Thượng Đạt, quê ở Quế Bình, Quảng Tây. Ông sinh vào giữa thời Gia Khánh, sống dưới thời trị vì củ...
13/10/2023

Trình Sĩ Siêu, hiệu là Thượng Đạt, quê ở Quế Bình, Quảng Tây. Ông sinh vào giữa thời Gia Khánh, sống dưới thời trị vì của bốn vị Hoàng đế: Đạo Quang, Hàm Phong, Thông Trị và Quang Tự. Trình Sĩ Siêu là một lương y nổi danh ở vùng Quảng Tây.

Từ nhỏ ông đã thông tuệ hơn người, thành thục kinh điển và lĩnh hội được nội hàm sâu sắc của Nho gia. Tuy nhiên, do gia cảnh nghèo túng, nên cha mẹ không thể chu cấp để ông thi cử lấy công danh. Thế nên, ông lấy nghề y làm chí hướng và từ đó chăm chỉ học các kỹ năng khám bệnh, bốc thuốc.

Khi được mười mấy tuổi, Trình Sĩ Siêu đã đến Quảng Đông, vốn muốn tìm danh sư để theo học, nhưng thời gian lâu rồi mà vẫn không gặp được. Khi ông quay trở về Quảng Tây, trên đường đi về phía Tây đến Quế Lâm, liền gặp được ân sư Chu Dị. Kể từ đó, Chu Dị dạy ông y thuật, và giúp ông thọ ích suốt đời trên còn đường hành nghề y. Chu Dị vốn là người Giang Tây. Thầy của ông là Thần y Dụ Xương (tự Gia Ngôn), được mệnh danh là “Thánh y” thời nhà Thanh, không chỉ “thông thiền lý,” mà còn giỏi về “hoàng bạch thuật” [luyện thuốc tiên giúp trường sinh bất lão]. Chu Dị đã được chân truyền từ sư phụ. Do vậy, y thuật của ông cũng rất phi thường.

Sau khi Trình Sĩ Siêu trở thành đệ tử của Chu Dị, mỗi ngày ông đều không dám lười biếng. Chỉ cần sư phụ ra ngoài khám bệnh, ông đều theo sát bên cạnh, tỉ mỉ quan sát và nghiêm túc ghi chép. Buổi tối trở về nhà, ông cũng không hề nghỉ ngơi, tiếp tục cầm sách y thời viễn cổ chăm học khổ luyện, dụng tâm lĩnh hội những y lý căn bản trong đó.

Sau đó, sư phụ đưa ông trở về Quế Bình, để ông khám và chữa trị cho dân làng của mình. Chu Dị có nhân phẩm cao thượng, y thuật cao siêu, khiến cả vùng Quế Bình, bất luận là quan lại, người quyền quý hay bá tính bình dân, đều rất kính trọng ông. Mọi người luôn gọi ông một cách trìu mến là “Chu tiên sinh.” Trong mười mấy năm, đức hạnh hành nghề của hai thầy trò đã trở thành giai thoại được lưu truyền ở địa phương. Chu Dị từng bước dạy đệ tử yêu quý của mình cách hành nghề y, bào chế thuốc, khiến y thuật của đệ tử cũng dần dần được nâng cao, cuối cùng trở thành danh y một thời được mọi người tôn sùng và kính ngưỡng.

Mặc dù y danh của Trình Sĩ Siêu đã lan rộng khắp nơi, nhưng ông vẫn chăm chỉ học tập và không ngừng tìm kiếm những đột phá về y thuật. Ngoài việc khắc ghi trong tâm các y lý và y thuật do chính sư phụ truyền dạy đồng thời áp dụng thành thạo, ông còn cố gắng học hỏi từ Tiết Kỷ (tự Tân Phủ, hiệu Lập Trai), thầy thuốc nổi danh được Hoàng đế Gia Tĩnh thời nhà Minh đánh giá cao, sau này được phong là Viện sử của Thái Y viện. Ông còn học hỏi phương pháp điều trị, bốc thuốc của danh y Trương Giới Tân (tự Hội Khanh, hiệu Cảnh Nhạc), người giỏi dùng Địa hoàng, được người đời sau gọi là “Trương Thục Địa.”

Sau này, khi gặp những bệnh nhân khác nhau, ông không rập khuôn theo các phương thuốc cổ xưa hoặc chấp vào lời nói của người nhà, mà dựa vào sự quan sát và chẩn đoán của chính mình để tùy bệnh hốt thuốc. Trong nhiều năm, bất luận là bệnh nhân bị ngoại cảm “lục dâm” (gió, lạnh, nóng, ẩm, khô, hỏa) hay bị nội thương bởi “thất tình” (mừng, giận, yêu, ghét, buồn, vui, sợ), chỉ cần uống thuốc mà ông bào chế thì bệnh sẽ khỏi.

Vào giữa thời Đạo Quang, thổ phỉ nổi lên khắp nơi, triều đình điều động một đội quân từ Quý Châu về Quế Bình trú đóng. Không lâu sau, tướng lĩnh và quân sĩ đều bị nhiễm bệnh dịch, chữa trị lâu ngày không khỏi. Khi đó, quan viên phụ trách quân lương sau nhiều lần hỏi thăm, đã tìm được Trình Sĩ Siêu, và thỉnh cầu ông đi chữa bệnh. Trình Sĩ Siêu không phụ lòng mong đợi, nhanh chóng chữa khỏi bệnh cho tất cả bệnh nhân trong quân ngũ. Quan viên kia cũng nhờ đó lập công và được Hoàng đế gia phong lên chức quan Lục phẩm. Sau này, khi Hồng Tú Toàn nổi dậy ở Quế Bình, huyện lệnh lúc bấy giờ là Lý Mạnh Quần cũng phái thêm quân đến tiếp viện. Tuy nhiên binh lính chưa ra trận đã mắc phải bệnh dịch, nên mời Trình Sĩ Siêu đến chữa trị. Ông bôn ba trong quân, chữa trị cho bệnh nhân và không rời đi cho đến khi binh lính đều bình phục. Khi sự việc được tấu lên triều đình, Lý Mạnh Quần cũng được thăng chức.

Vào năm Hàm Phong thứ 5, Trần Khai chiếm được Quế Bình, thành lập nước Đại Thành tại đây và tự xưng Vương. Trình Sĩ Siêu ở trong chốn loạn không hề hoảng sợ, tiếp tục ở nhà để tâm nghiên cứu y thuật và chỉnh lý hồ sơ bệnh án. Ông phân loại những bài thuốc mà bản thân kê hàng ngày cùng những điều tâm đắc, kinh nghiệm tích lũy được trong khi chữa bệnh, đồng thời ghi chép lại, cuối cùng biên soạn thành tập và viết thành sách.

Sau khi Chu Dị quy tiên, Trình Sĩ Siêu rất nhớ sư phụ. Ông thường tâm niệm rằng, làm nghề y cũng như làm người, không được quên cội nguồn. Khi viết sách, mỗi thời khắc ông đều cảm niệm sự hướng dẫn và dạy bảo của sư phụ Chu Dị trong nhiều năm qua. Vì vậy, ông đặt tên cho cuốn y thư do mình biên soạn là “Tinh Châu thực lục” theo tên hiệu hành nghề của Chu Dị là ‘Tinh Châu.”

Vào năm Đồng Trị thứ 7, cô mẫu của Lộc Truyền Lâm, một vị quan nổi tiếng thời nhà Thanh, đột nhiên bị đau đầu. Bà vẫn còn trẻ, nhưng uống nhiều thuốc bổ cũng không giúp ích gì. Thời gian dài trôi qua, bụng bà bắt đầu to lên. Thấy nước da hồng hào và lâu ngày không có kinh nguyệt, các thầy thuốc khám đều cho rằng đây là dấu hiệu có thai. Tuy nhiên, sau khi chẩn đoán mạch, Trình Sĩ Siêu phát hiện do bệnh nhân uống quá nhiều thuốc bổ khiến cơ thể không thể hấp thụ nên đều tích tụ trong bụng. Chỉ cần loại bỏ hết dư lượng thuốc, triệu chứng chướng bụng sẽ biến mất và kinh nguyệt sẽ quay trở lại. Sau đó điều trị theo phương thuốc này, quả nhiên đúng như lời ông nói.

Còn đối với chứng đau đầu của bệnh nhân, ông cho rằng không thể chữa khỏi bằng cách dùng thuốc. Ông yêu cầu người nhà bệnh nhân đúc một chiếc gối bằng vàng và để bệnh nhân gối trên đó. Đợi chiếc gối chuyển dần sang màu đen, ông bèn gọi thợ đến loại bỏ chất đen bằng cách nung gối trên lửa rồi lại cho bệnh nhân tiếp tục gối trên đó. Sau khi lặp lại như thế ba lần, chứng đau đầu của bệnh nhân hoàn toàn biến mất. Khi Lộc Truyền Lâm nhìn thấy y thuật của Trình Sĩ Siêu, lập tức viết tay bốn chữ “Thần đồng Hòa Hoãn,” khen ngợi y thuật của ông cũng xuất thần nhập hóa giống hai vị thần y của Tần quốc là Hòa và Hoãn.

Khi đó, huyện lệnh huyện Phú Xuyên ở Quảng Tây là Tiêu Triệu Tuấn bị chứng phù thũng sau khi hút thuốc phiện. Điều trị đã một thời gian, nhưng tình trạng bệnh trạng ngày càng trầm trọng hơn, cuối cùng, thậm chí đến thuốc phiện cũng không hút được nữa. Các thầy thuốc vừa cho ông ta uống thuốc sắc, vừa đem gan rồng quý hiếm nghiền thành bột rồi bôi lên cơ thể ông ta, nhưng không có hiệu quả. Sau khi Trình Sĩ Siêu xem bệnh liền làm cho ông ta đổ mồ hôi, sau đó lại điều trị tạng tỳ, thì bệnh của ông ta liền khỏi. Tiêu Triệu Tuấn đã đích thân viết tặng Trình Sĩ Siêu bốn chữ “Thập toàn vi thượng” [Mọi thứ đều hoàn hảo], khen ngợi ông là thầy thuốc tối thượng đẳng, mười bệnh nhân tới đều chữa khỏi cả mười.

Nhờ y thuật siêu phàm của mình, Trình Sĩ Siêu rất có uy tín trong giới quan lại và quý tộc ở địa phương. Trong nhiều thập niên, số biển ngạch và đề chữ mà ông đã nhận được không hề ít. Ông mất vào năm Quang Tự thứ 13, thọ 84 tuổi. Con trai ông là Triệu Lân đã được cha truyền dạy từ khi còn nhỏ, về sau, đã viết cuốn sách “Phát cổ nhân sở vị phát” [Chưa từng có ở người cổ đại], và cũng đã trở thành một danh y được ghi vào y sử triều đại nhà Thanh.
Đông Y Thiên Ân Đường.
Lương Y: Mai Nhân Hậu.
Số điện thoại: 0908707473

GIA VỊ - VỊ THUỐC  TĂNG CƯỜNG SỨC KHỎE CHO GIAI ĐOẠN CHUYỂN MÙA                   BSCK2. Huỳnh Tấn VũY học cổ truyền có ...
12/10/2023

GIA VỊ - VỊ THUỐC TĂNG CƯỜNG SỨC KHỎE CHO GIAI ĐOẠN CHUYỂN MÙA
BSCK2. Huỳnh Tấn Vũ
Y học cổ truyền có những vị thuốc vị cay, tính ấm để trừ hàn, thường được dùng nhiều vào mùa lạnh. Những vị thuốc này không chỉ là vị thuốc dùng trong các bài thuốc, mà còn được dùng phổ biến như gia vị, tạo mùi vị độc đáo cho món ăn, bên cạnh đó làm ấm bụng, dễ tiêu, trừ được cái lạnh. Dưới đây là một số vị thuốc – gia vị thường được sử dụng.
 Đại hồi: khí thơm, vị cay, tính ấm, không có độc, đi vào tâm, thận, vị, tiểu trường và bàng quang. Tác dụng: khai thông cho hai kinh ở trên và dưới để hồi dương tán hàn, lại chỉ thống, bổ sự bất túc của mệnh môn, trợ giúp cho tình trạng dương sự không cử động được, chữa chứng can cước khí thấp cước khí bàng quang có khí lạnh, sưng đau và đau bụng, sán khí hoắc loạn, chứng khí mửa ói, trị tất cả các chứng thận lạnh tỳ hàn, bụng đau như dao cắt, trừ tất cả mùi thối và hôi miệng, eo lưng đau nhức. Thuốc có tác dụng trừ hàn tán kết, dùng chữa đau bụng, ăn không tiêu, nôn mửa, bụng đầy trướng, thấp khớp và làm thuốc gây trung tiện. Đại hồi dùng ngâm rượu chữa đau nhức khớp xương.
 Quế chi: Quế chi là cành non phơi khô của một số loài quế Cinamomun optusifolium. Đắng, thơm, ngọt và ấm. Quy kinh Tâm, Phế và Bàng quang. Tác dụng: tăng tiết mồ hôi và giảm hội chứng ngoại sinh hoạt huyết làm ấm kinh lạc và trừ hàn, giải cảm. Quế chi dùng kết hợp với bạch thược hay phụ tử trị đau khớp do nhiễm phong hàn.
 Tiểu hồi: Vị thuốc tiểu hồi là quả của cây tiểu hồi (Fructus Foeniculi.) vị cay, tính ôn, quy kinh can, thận, tỳ, vị. Tác dụng: ôn thận, tán hàn, giảm đau, điều khí. Làm ấm can, thăng can khí trị các chứng đau bụng do hàn; Ấm vị khí, trị biếng ăn, ăn không ngon miệng, ăn không tiêu, buồn nôn.
 Hồ Tiêu: là quả gần chín của cây Hồ tiêu (Piper nigrum L.) phơi hay sấy khô, dùng làm thuốc . Hồ tiêu vị cay tính nóng, quy kinh Vị, Đại tràng. Hồ tiêu trị chứng vị hàn đàm, nói nước, ăn vào ói ngay rất tốt. Vị thuốc kích thích tiêu hóa, giảm đau.
 Gừng: Khương là thân rễ của cây gừng (Zingiber officinale Roscoe), tùy vào tính chất khô hay tươi sẽ mang tên gọi khác nhau: sinh khương (thân rễ tươi) và can khương (thân rễ khô). Sinh khương là gừng tươi có vị cay, tính ấm, có tác dụng khu phong tán hàn, giải biểu, ôn thông kinh lạc. chữa cảm mạo, nhức đầu, phong hàn, ho có đờm, bụng đầy trướng, nôn mửa, kích thích tiêu hóa, tăng bài tiết, giải độc ngứa do bán hạ, cua cá, thú, chim độc. Dùng củ gừng tươi nướng lên có tác dụng chữa đau bụng, lạnh bụng, đi ngòai. Gừng khô, gừng sao dùng chữa đau bụng do lạnh, chân tay lạnh, bụng đầy trướng, khó tiêu.
 Thảo quả: dược liệu là quả của cây thảo quả (Amomum aromaticum Roxb.), có vị cay tính ôn, không độc. Quy kinh Tỳ Vị. có tác dụng trục hàn, ráo thấp, trừ đờm, ấm bụng, tiêu tích, giúp ăn ngon miệng. Thảo quả không chỉ là một gia vị trong nhiều món ăn mà còn là một cây thuốc quý
 Bạch đậu khấu: quả của cây bạch đậu khấu (Amomum Repens Sonner.). Vị cay, the, mùi thơm, tính nóng, vào kinh Phế, Tỳ, Vị. Hành khí, làm ấm Vị, vị qủan trướng đau, bụng đầy, ợ hơi do hàn tà ngưng tụ và khí trệ gây ra.
 Trần bì: Trần bì còn có tên khác là thanh bì (làm từ vỏ quýt xanh), trần bì (vỏ quýt chín), quyết, quýt, hoàng quyết (Citrus reticulata Blanco.). Vị cay đăng, tính ấm. Quy kinh Phế và Tỳ. Tinh dầu Trần bì có tác dụng kích thích nhẹ đối với đường tiêu hóa, giúp cho ruột bài khí tích trệ ra ngoài dễ dàng, tăng tiết dịch vị, có lợi cho tiêu hóa, có tác dụng làm gĩan cơ trơn của dạ dày và ruột. Thuốc kích thích niêm mạc đường hô hấp, làm tăng dịch tiết, làm loãng đờ, dễ khạc ra. Xuyên trần bì làm gĩan phế quản, hạ cơn hen.
 Đinh hương: là nụ hoa của cây đinh hương (Eugenia caryophyllata thunb.), giống như một cái đinh, màu nâu sẫm. Có vị cay, tê, mùi thơm mạnh, tính ấm. Tác dụng kích thích, làm thơm, ấm bụng, chống nôn, giảm đau, sát khuẩn, làm săn, tiêu sưng. Giúp làm ấm tỳ vị và làm ấm thận bổ dương.
Các loại gia vị - vị thuốc trên thường được sử dụng nhiều vào giai đoạn chuyển mùa là một cách bảo vệ cơ thể chống lại cái lạnh, cái bất thường củ thời tiết. Tuy nhiên cần thận trọng đối với người âm hư hỏa vượng (nóng trong người) không nên dùng. Nên tư vấn thầy thuốc khi có những bất thường khi sử dụng gia vị- vị thuốc.
Đông Y Thiên Ân Đường.
Lương Y: Mai Nhân Hậu.
Số điện thoại: 0908707473.

Address

Q. Tân Bình
Ho Chi Minh City

Telephone

+84908707473

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Y Học Cổ Truyền- Châm Cứu posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share

Category