22/02/2022
Thận bại lưng đau, đái vặt thường,
Ban đêm ngồi dậy, khổ thần thương,
Mệnh môn nếu được kim châm đến,
Thận du ngải đốt hết tai ương.
(trích Ngọc Long ca).
Nói về Thận Bại, tức là Thận hư. Đông Y phân ra Thận Âm hư, Thận Dương Hư và Thận Âm Dương Lưỡng Hư. Vậy là có 3 thể, nhưng chứng thì khá giống nhau, và cách chữa thì lại RẤT khác nhau.
Nói Thận Âm là nói về cái dinh dưỡng, chất thủy dịch của Thận. Khi nó hư, thì bản thận bị yếu, mọi chức năng đều bị suy yếu.
Chức năng của Thận là chủ Thủy (Huyết, dịch, nước), chủ Cốt (xương), sinh Tủy (não, tủy xương), chủ Nghe âm (do khai khiếu ra tai), làm cho tóc tươi tốt, chủ Tàng tinh, tàng Chí (sự tập trung), vv. Vì vậy, khi thận âm hư, thường thấy các biểu hiện như:
1. Thiếu máu, họng khô, dễ bị viêm nhiễm, nước tiểu ít, màu thường vàng tới sẫm đỏ, hay bị viêm tiết niệu, hay bị sỏi thận, đau xương (lưng, gối);
2. Dễ bị xoay xẩm, choáng váng (liên quan tới Can huyết hư), trí nhớ kém, khó tập trung (do thiếu huyết dịch ở não), tóc khô gãy, bạc nhiều, lòng bàn chân, bàn tay dễ bị nóng, rịn mồ hôi, mồ hôi trộm;
3. Nam giới quan hệ quá nhanh, dễ mộng mơ mà xuất tinh, đi tiểu cũng ra tinh, dễ bị chứng sỏi thận, bàng quang, dễ mất ngủ;
4. Nữ giới thường bị tới kinh trước kỳ, kinh nguyệt dai dẳng rong ruổi, ảnh hưởng tới thụ thai, dễ sảy thai.
Thận DƯƠNG chủ về tinh thần, ý chí, sự hưng phấn. Do vậy, khi thận Dương hư, thường có biểu hiện như:
1. Tinh thần mệt mỏi, khó tập trung tư tưởng, sự ham muốn tình dục giảm sút rõ rệt, thậm chí mất hẳn ham muốn.
2. Nam giới thì có thể bị liệt dương, nữ giới thì chu kỳ bị kéo dài, thậm chí bế kinh, nếu không bế tắc thì lại chảy ồ ạt dạng như băng lậu (chảy quá nhiều), tạng người thường bệu bệu, béo béo (dương hư thường béo).
3. Thường sợ lạnh. Thận dương là thận Hỏa, chủ về Hàn Nhiệt của toàn thân. Người thận dương hư thường thấy tay chân lạnh – khác với người âm hư thường thấy tay chân nóng, rịn mồ hôi. Mùa đông chưa tới thì đã run rẩy.
4. Dương hư cũng kèm đau lưng, mỏi gối, xương kém, nhưng đa số thấy cứng lưng hơn là nóng lưng mà sinh đau.
Còn như âm dương lưỡng hư thì chính là kết hợp cả 2, vì âm hư trước kéo theo dương hư nên ban đầu đều là các chứng âm hư, lâu không chữa sinh hư cả âm dương, cực kỳ khó chữa, bệnh nổi như ong, không cần phải bàn.
Cách chữa với châm cứu khá đơn giản. Nếu mạch xích trái trầm sác thì quyết định là thận âm hư. Nếu mạch xích phải trầm trì thì quyết định thận dương hư.
Như bài Ngọc Long Ca, trước là châm vào Mệnh môn, sau là bổ Thận du. Đó là căn bản điều chỉnh thận khí. Thận nên bổ, chẳng nên tả. Tiếp đó, chọn tại bản kinh – kinh Thận để bổ. Nếu là âm hư, chọn bổ thận thủy, châm vào Thái khê, Phục lưu. Châm thêm Thái Uyên để bổ mẹ. Nếu là Dương hư thì chọn bổ thận hỏa. Chọn châm (hoặc cứu huyệt ) vào Dũng Tuyền ở bản kinh. Chọn châm huyệt Thái uyên của kinh Phế. Nếu âm hư hỏa vượng, cũng có thể chọn tả một chút tại huyệt Chí âm – chích cho ra máu để tả, thì hiệu quả rất nhanh.
Còn như thuốc thì chủ yếu sử dụng các bài như Bát vị, Lục vị, Đại Bổ Nguyên gia giảm.