Trung Tâm Phục Hồi Chức Năng

Trung Tâm Phục Hồi Chức Năng điều trị đau

18/02/2024

HỘI CHỨNG CHÈN ÉP TỦY
I. ĐẠI CƯƠNG
Tủy sống nằm trong ống sống được túi màng cứng bao quanh. Túi này xuất phát từ lỗ chẩm đến tận cùng đốt sống cùng thứ hai (S2)
Ngược với màng cứng ở sọ não, màng cứng cột sống không dính chắc vào xương, có một khoảng ngoài màng cứng chứa mỡ và có những tĩnh mạch. Khoảng này có thể là nơi xuất phát những tổn thương xâm lấn.
Do sự phát triển không đồng bộ giữa tủysống và những phần bao quanh, tủy sống chỉ chiếm một phần ống sống và một phần của túi màng cứng mà thôi: mức thấp nhất của tủy sống, còn gọi là chóp cùng không vượt quá bờ dưới của L1, dưới mức này túi màng cứng chứa các rễ tạo nên chùm đuôi ngựa và dây cùng (filum terminal). Dây cùng, có bản chất xuất phát từ màng nuôi, phần trên của nó là phần nối dài của ống nội tủy đi từ chóp cùng của tủy sống đến tận xương cụt.
II. CHÈN ÉP TỦY VÀ CHÙM ĐUÔI NGỰA KHÔNG DO CHẤN THƯƠNG
Tủy nằm trong ống sống không thể giãn ra được , vì vậy tủy rất nhạy với những quá trình bệnh lý gây ra hẹp đường kính ống sống. Chèn ép tủy diễn tiến từ từ có thể gây nên (1) chèn ép cơ học trực tiếp hoặc (2) qua trung gian của rối loạn tuần hoàn tại chỗ hoặc của hiện tượng thiếu máu cục bộ. Lúc đầu chèn ép tủy sẽ có những thay đổi về mặt chức năng ở ngang mức bị chèn ép, kế đến tủy bị tổn thương thực sự và ngày càng ít có khả năng hồi phục lại được. Hậu quả là là có hội chứng tủy xảy ra ngày càng nặng dần, diễn tiến đến cuối cùng là bệnh cảnh cắt ngang tủy. Trong một số trường hợp, trong một giai đoạn nào đó của bênh (có thể xảy ra rất sớm), diễn tiến nặng dần này bị thay thế bằng hiện tượng nặng lên đột ngột biểu hiện hội chứng cắt ngang tủy gần như hoàn toàn. Kiểu diễn tiến này là do hiện tượng nhũn tủy, liên quan đến chèn ép một thân động mạch quan trọng: động mạch tủy sống trước, động mạch rễ tủy (artère radiculo-médullaire). Vì vậy chẩn đoán và điều trị hội chứng chèn ép tủy gần như là khẩn cấp, phải điều trị trước khi tổn thương tủy trở nên không hồi phục.
III. LÂM SÀNG
Chẩn đoán hội chứng chèn ép tủy tương đối dễ khi bệnh cảnh có ba hội chứng chính: hội chứng tại nơi tổn thương, hội chứng dưới nơi tổn thương và đôi khi có luôn cả hội chứng tại cột sống (hội chứng tại chỗ).
1. Hội chứng tại nơi tổn thương: biệu hiện dưới dạng tổn thương một hoặc nhiều rễ tại nơi bị chèn ép tủy có giá trị định vị rất lớn. Hội chứng này biểu biểu hiện bằng kiểu đau theo rễ:
- đau nhiều, dữ dội
- đau dọc theo đường đi của rễ, có thể một bên hoặc hai bên
- có tính chất cơ học: tăng lên khi ho, hắt hơi, rặn, gắng sức, vận động, ít đáp ứng với thuốc giảm đau
- đôi khi có những cơn kịch phát đau chói dữ dội đặc biệt là ban đêm
Dấu hiệu chủ yếu của hội chứng tại nơi tổn thương là đau theo rễvà thông thường đau theo rễ là triệu chứng duy nhất. Tuy nhiên cũng có thể kèm theo những triệu chứng khách quan khác mà chúng ta phát hiện ra được trong khi khám:
- giảm cảm giác theo rễ chi phối
- liệt, teo cơ do rễ chi phối
- và nhất là mất phản xạ gân cơ do rễ chi phối là dấu hiệu thường gặp (‘trung thành’) trong chèn ép tủy cổ.
2. Hội chứng dưới nơi tổn thương: biểu hiện gián đoạn chức năng các bó tủy hướng lên (bó cảm giác) và hướng xuống (bó vận động).
2.1 Các rối loạn vận động
Lúc đầu dáng đi có thể bị rối loạn mang tính chất tạm thời: một chân mềm nhũn ra nhất thời, hoặc mỏi một chân sau một thời gian đi bộ làm cho bệnh nhân phải dừng lại để nghỉ ngoi. Thường lúc đầu chỉ ảnh hưởng một bên, sau đó ảnh hưởng luôn cả hai bên, người ta gọi là hiện tượng đi cách hồi của tủy (claudication intermittent medullaire). Hiện tượng này đi cách hồi này không gây ra đau chân khi tổn thương chèn ép nằm ở tủy sống cổ (khác với hiện tượng đi cách hồi do hẹp ống sống thắt lưng). Sau đó triệu chứng này trở nên thường xuyên hơn, dáng đi cứng, spastic, và cuối cùng là đi không được nữa.
Tổn thương vận động lúc đầu kín đáo tập trung chủ yếu ở hai chi dưới, đặc biệt là ở những cơ gấp, sau đó diễn tiến nặng dần, tùy theo mức tổn thương mà chúng ta có yếu liệt chi dưới hoặc yếu liệt tứ chi theo kiểu tháp: tăng trương lực cơ theo kiểu tháp, tăng phản xạ gân cơ, phản xạ lan tỏa, đa động, dấu Babinski (+) hai bên. Có hiện tượng giải phóng các phản xạ bảo vệ tủy như dấu Babinski, hiện tượng gấp mặt mu bàn chân, phản xạ ba co: kích thích ngoài lòng bàn chân, tăng phản xạ gân cơ gần đến mức tổn thương
2.2 Tổn thương cảm giác
Đau kiểu bị bó chặt, bị kẹp. Các biểu hiện dị cảm theo những kiểu khác nhau xuất hiện ở dưới mức tổn thương tùy tổn thương theo bó g*i đồi thị hay theo cột sau. Tổn thương cột sau gây ra rối loạn định vị cảm giác, rối loạn sự nhận biết tên, vị trí ngón. Còn tổn thương theo bó g*i đồi thị biểu hiện dưới dạng đau, dị cảm nhưng không có định vị rõ, không có yếu tố khởi phát đau rõ, cần phải phân biệt với kiểu đau theo rễ.
Các rối loạn cảm giác khách quan thường xảy ra muộn hơn so với các triệu chứng vận động, nhưng lại có giá trị lớn trong chẩn đoán chèn ép tủy. Rối loạn cảm giác nhiệt và cảm giác đau thường xảy ra sớm và nặng nề hơn so với rối loạn cảm giác vị trí ngón.
Các rối loạn cảm giác dưới mức tổn thương nặng lên từ từ cho đến mức nặng nhất là mất cảm giác hoàn toàn ở vùng dưới nơi thương tổn. Một điều chắc chắn là: nếu như chúng ta nhận biết được hội chứng cảm giác dưới nơi tổn thương, xác định mức cao nhất của tình trạng rối loạn cảm giác này thì chúng ta đã thực hiện một bước quan trọng trong chẩn đoán chèn ép tủy.
2.3 Rối loạn cơ vòng
Thường xuất hiện trễ và thường giới hạn trong thời gian dài dưới biểu hiện là đi tiểu chậm hoặc đi tiểu gấp, hoặc tiểu nhiều lần
3. Hội chứng cột sống (hội chứng tại chỗ)
- Hiện tượng cứng một đoạn cột sống: hiện tượng này dễ thấy ở vùng cổ và vùng lưng (những nơi linh động của cột sống) hơn là ở vùng ngực.
- Biến dạng cột sống do đau: vẹo cột sống.
- đau tại chỗ cột sống: xuất hiện đau khi ấn vào các mấu g*i, cơ cạnh sống.
Hội chứng cột sống thường gặp nhất ở những tổn thương của cột sống (ví dụ như u cột sống) nhưng cũng có thể gặp ở những u cạnh tủy sống hoặc thậm chí những u nội tủy.
IV. CÁC BIẾN THỂ LÂM SÀNG
Một khi bệnh đã điển hình, đủ cả ba hội chứng: tại nơi tổn thương, dưới nơi tổn thương và hội chứng tại chỗ thì chẩn đoán chèn ép tủy rất dễ nghĩ đến. Tuy nhiên rất ít khi gặp được bệnh cảnh điển hình như vậy: hội chứng dưới nơi tổn thương (yếu hai chân diễn tiến từ từ), hoặc hội chứng tại nơi tổn thương (đau theo rễ) xuất hiện một thời gian dài như là một triệu chứng đơn độc. Chúng ta phải dựa vào những biến thể để suy đoán ra được vị trí chèn ép tủy. Việc định vị tổn thương dựa vào hai hướng: định vị theo chiều dọc và định vị theo chiều ngang.
1. Định vị theo chiều ngang
Chèn ép tủy trước: biểu hiện đầu tiên là vận động: chèn ép trực tiếp vào cột trước của tủy hoặc vào các rễ trước dẫn đến liệt khu trú kèm theo teo cơ. Dưới nơi tổn thương: hội chứng tháp có thể xuất hiện rất sớm, còn các dấu hiệu cảm giác thường xảy ra muộn hơn
Chèn ép tủy sau: chèn ép chọn lọc vào cột sau của tủy rối loạn cảm giác sâu rất sớm tạo ra hội chứng thất điều giả giang mai và cuối cùng là hội chứng thất điều co cứng
Chèn ép tủy bên: tổn thương chiếm một nửa bên của tủy gây nên hội chứng Brown-Séquard.
2. Định vị theo chiều dọc
• Chèn ép tủy cổ cao (C1-C4) dẫn đến liệt cứng tứ chi; trong những biểu hiện của hội chứng tại nơi tổn thương cần chú ý đến
+ chèn ép thần kinh hoành gây ra nấc cụt, liệt một nửa cơ hoành.
+ chèn ép nhánh tủy g*i của dây XI: liệt cơ ức đòn chũm, cơ thang.
Đôi khi xuất hiện hội chứng “trên nơi tổn thương” do u xâm lấn ngược lên sọ não hoặc tổn thương các rễ đi xuống, nhánh g*i của dây V.
Chèn ép tủy sống cổ cao có thể có hội chứng treo, triệu chứng này có thể leach tầng so với vị trí tủy bị chèn ép. Trêm lâm sàng biểu hiện bằng rối loạn vận động cảm giác ngang hai tay dưới dạng dị cảm, tê tay và teo cơ.
• Chèn ép tủy cổ thấp biểu hiện bằng yếu liệt hai chidưới và hội chứng rễ ở hai chi trên. Nhờ vào triệu chứng rễ này mà ta xác định chính xác vị trí thương tổn.
• Chèn ép tủy lưng là chèn ép thường gặp nhất đau lưng, biểu hiện bằng đau thắt ngang ngực -bụng kiểu dây nịt và yếu hai chi dưới. Mất phản xạ da bụng chọn lọc có thể là dấu định vị cho tổn thương vùng này
• Chèn ép tủy thắt lưng-cùng: do các khoanh tủy bị dẹt ở mức này, các đường đi của rễ bọc quanh phần tận cùng của tủy, một chèn ép tủy dù không lớn lắm cũng ảnh hưởng đến nhiều khoanh tủy và nhiều rễ. Hơn nữa, những triệu chứng ngoại biên càng đi đến tận cùng của tủy lại càng làm lu mờ, giấu đi các triệu chứng của tổn thương tủy thực sự.
Các rối loạn cơ vòng và rối loạn sinh dục thường xuất hiện và thường xảy ra sớm.Chèn ép tủy thắt lưng được nghĩ đến khi thấy có liệt mềm cơ tứ đầu đùi, mất phản xạ gối, tăng phản xạ gót và Babinski dương tính hai bên.
• Chèn ép tủy cùng (chóp cùng): biểu hiện liệt mềm, mất phản xạ gân cơ hai chi dưới kèm rối loạn cơ vòng nặng nề, gần giống với hội chứng chùm đuôi ngựa.
V. CẬN LÂM SÀNG
1. Chụp X-quang qui ước cột sống: chụp phim phải biết là có sự không tương ứng giữa tủy sống và cột sống để tập trung vị trí cho chính xác. Đôi khi hình X-Q qui ước cho những thông tin quan trọng ví dụ như tình trạng hủy xương, hiện tượng xơ xương (ostéosclérose), xẹp một đốt sống do ung thư di căn, hoặc hình ảnh viêm thân sống đĩa đệm
2. CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH: tập trung vào đoạn cột sống bị nghi ngờ, cho phép nghiên cứu đốt sống, các đĩa đệm, nhưng không thấy rõ các cấu trúc trong lòng ống sống.
3. CỘNG HƯỞNG TỪ: là xét nghiệm cần thực hiện nếu như chúng ta có điều kiện thực hiện đứng trước một trường hợp chèn ép tủy. Cho thấy thân sống, đĩa đệm và các thành phần trong ống sống.
VI. NGUYÊN NHÂN
Nguyên nhân ngoài màng cứng:
Ung thư di căn cột sống và khoang ngoài màng cứng là nguyên nhân thường gặp nhất.
Nhiễm trùng: lao cột sống, viêm thân sống đĩa đệm.
Thoát vị đĩa đệm, thường gặp là thoát vị đĩa đệm vùng cổ.
Nguyên nhân trong màng cứng:
Các u ngoại tủy: u màng tủy, neurinome.
Các u nội tủy: epemdymome, astrocytome…

01/02/2024
NGUYÊN NHÂN TÊ BÌ BÀN TAY-NGÓN TAY VÀ CÁCH ĐIỀU TRỊĐám rối thần kinh cánh tay được hình thành bởi các dây thần kinh đi t...
15/11/2022

NGUYÊN NHÂN TÊ BÌ BÀN TAY-NGÓN TAY VÀ CÁCH ĐIỀU TRỊ

Đám rối thần kinh cánh tay được hình thành bởi các dây thần kinh đi từ não xuống theo tủy sống, tách ra từ cột sống cổ C5, C6, C7, C8 và dây thần kinh cột sống ngực T1 để đi xuống cánh tay, truyền và nhận tín hiệu của cánh tay, bàn tay và các ngón tay.

Các dây thần kinh khi ra khỏi các đốt sống cổ sẽ nhập lại với nhau rồi lại tách ra thành 5 nhánh chính để chi phối hoạt động cho mỗi một vùng riêng biệt rất phức tạp nên được gọi là “đám rối”

1- Dây thần kinh cơ bì đi ra từ các đốt sống: C5, C6, C7. Phân bố các cơ trước của cánh tay, giữa vai và khuỷu tay.
Chức năng cảm giác: Truyền tín hiệu cho nhánh bên của cẳng tay, nằm ở nửa bên của cẳng tay trước và một phần nhỏ của cẳng tay sau.

2- Dây thần kinh nách đi ra từ các đốt sống: C5 và C6. Phân bố cơ bắp nhỏ và cơ delta
Chức năng cảm giác: Truyền tín hiệu điều khiển vùng dưới da bên trên của cánh tay, dưới lòng bàn tay.

3- Dây thần kinh giữa đi ra từ các đốt sống: C6 - T1. Phân bố hầu hết các cơ uốn ở cẳng tay, cơ bên và hai bên thắt lưng liên quan đến ngón trỏ và ngón giữa.
Chức năng cảm giác: Cung cấp tín hiệu cho của vùng lòng bàn tay, một phần bên của bàn tay và một nửa mặt trên bàn tay.

4- Dây thần kinh quay đi ra từ đốt sống cổ: C5 - T1. Điều khiển cơ tam đầu và các cơ ở khoang sau của cẳng tay (chủ yếu duỗi cổ tay và ngón tay).
Chức năng cảm giác: Cảm nhận cạnh sau của cánh tay và cẳng tay, và cạnh sau của bàn tay.

5- Dây thần kinh trụ đi ra từ đốt sống cổ: C8 và T1. Phân bố các cơ của bàn tay (ngoài các cơ bên và hai bên thắt lưng),
Chức năng cảm giác: cảm nhận bề mặt trước và sau của ngón tay giữa và một nửa ngón tay, và khu vực lòng bàn tay liên quan.

Dọc đường truyền tín hiệu, các dây thần kinh phải chui qua nhiều đường hầm như đi từ tủy sống ra ngoài qua các lỗ liên hợp của các đốt sống, đi dưới xương đòn (xương quai xanh), chui dưới các cơ ngực nhỏ, đi qua khủy tay, chui vào đường hầm cổ tay, các đường hầm đốt ngón tay. Những đoạn đường hầm này, nếu các cơ bị căng cứng hay bị viêm nhiễm sưng to sẽ ép lên các dây thần kinh sẽ làm mất tín hiệu điều khiển của thần kinh như mất cảm giác, tê bì cách tay, ngón tay.

ĐIỀU TRỊ:
Tây y sẽ cho bệnh nhân uống thuốc giảm đau, mổ ra cắt bỏ khối gây chèn ép lên dây thần kinh, làm thông thoáng dây thần kinh sẽ hết cảm giác tê bì.
Đông y: Bấm huyệt, đả thông làm máu lưu thông lên chỗ cơ bị căng cứng hay viêm nhiễm. Các đại thực bào sẽ xử lý vùng bị viêm nhiễm làm thông thoáng cho các dây thần kinh. Phương pháp này rất ưu điểm vì không phải mổ.

ST

Bạn có biết dây chằng trước bên-bên ngoài (DCTB-BN) của đầu gối? 🦵 🦵 🦵👉 DCTB-BN là một cấu trúc dây chằng riêng biệt đi ...
10/09/2022

Bạn có biết dây chằng trước bên-bên ngoài (DCTB-BN) của đầu gối? 🦵 🦵 🦵

👉 DCTB-BN là một cấu trúc dây chằng riêng biệt đi ra trước ở bên ngoài của đầu gối, có thể phân biệt được với dải chậu chày (ITB) và bao khớp trước bên.

👉 Nó đi theo một hướng đi xiên từ gần mặt lưng đầu xa xương đùi vào hướng đầu xa mặt bụng đến mặt trước bên xương chày.

👉 Nguyên ủy tại xương đùi là ở phía sau và hơi gần với mỏm lồi cầu ngoài xương đùi và chỗ bám tận ở xương đùi chồng lên dây chằng bên-bên ngoài.

👉 Chỗ bám tận trên xương chày nằm ở khoảng giữa giữa lồi củ Gerdy và chóp của xương mác.

👉 Dây chằng trước bên-bên ngoài cho thấy chiều dài trung bình khi duỗi đầu gối là 39,13 mm, chiều rộng trung bình tại mức đường khớp là 8,99 mm và độ dày trung bình tại mức đường khớp là 2,06 mm.
https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/30910626/
👉 Dây chằng trước bên-bên ngoài là một yếu tố quan trọng góp phần vào sự ổn định xoay của đầu gối và đặc biệt hạn chế xoay trong ở góc gập lớn hơn 35°.
https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/25556221/

Damage to the ALL of the knee could result in knee instability at high angles of flexion. It is possible that a positive pivot-shift sign may be observed in some patients with an intact ACL but with damage to the ALL. This work may have implications for extra-articular reconstruction in patients wit...

12/08/2022

Tiếng kêu “rắc rắc” khi bẻ khớp là gì và có gây nguy hiểm không ?

1. Tiếng kêu “rắc rắc” là gì ?

Trái với lầm tưởng của nhiều người là do xương di chuyển hoặc va vào nhau tạo tiếng kêu.

Tiếng kêu “rắc rắc” chúng ta thường nghe thấy thật ra là do các bọt khí vỡ ra trong chất lỏng hoạt dịch của vùng khớp.

2. Nguy hiểm nếu tự bẻ khớp tại các cơ sở không được cấp phép

Gần đây, trên mạng xã hội, xuất hiện nhiều video bẻ, nắn khớp và cột sống với âm thanh “rắc rắc” nghe vui tai được lồng ghép gây kích thích tò mò, thu hút cho người xem, theo hiệu ứng đám đông.

Việc bẻ khớp này có thể gây ra nhiều nguy hiểm cho khớp & cột sống như liệt tứ chi do tổn thương tủy sống.

Đặc biệt, tại vùng cột sống cổ, ngực thắt lưng - nơi nhiều dây thần kinh chi phối toàn bộ vận động cơ thể và các cơ quan quan trọng có thể gây tổn thương chèn ép tủy, liệt tứ chi, đột quỵ, rối loạn cơ vòng (gây đại tiểu tiện không tự chủ), thậm chí gây tử vong.

Tiếng kêu “rắc rắc” gây thích thú thực ra chỉ là một trải nghiệm tâm lý, không có ý nghĩa xét về mặt hiệu quả điều trị.

Trên thực tế, các bác sĩ chuyên khoa cột sống bác sĩ, kỹ thuật viên vật lý trị liệu & phục hồi chức năng thực hiện thao tác nắn chỉnh có thể không tạo ra âm thanh nhưng không có nghĩa là việc nắn chỉnh không hiệu quả.

Tuy nhiên, nếu người thực hiện cố gắng xoay vặn, thực hiện các động tác không đúng kỹ thuật để tạo ra âm thanh rắc rắc sẽ mang đến nhiều hậu quả đáng ngại như:

- Gây tổn thương khớp:

Khi bẻ khớp không đúng cách hoặc lực quá mạnh & đột ngột, chúng ta sẽ bị giãn dây chằng bao quanh vùng khớp, đặc biệt vùng khớp cổ.

Điều này có thể dẫn tới dây chằng bị kéo căng và tổn thương vĩnh viễn.

Và có thể dẫn tới các bệnh thoái hóa khớp sớm, tổn thương sụn khớp, dây chằng, mạch máu tại khớp.

- Hội chứng cột sống và hội chứng rễ - thần kinh:

+ Tác động lực mạnh và sai tư thế hoặc cố xoay vặn cột sống để tạo ra âm thanh có thể gây ra các sai lệch trên cột sống, đặc biệt nguy hiểm những trường hợp bệnh nhân đã có trượt đốt sống, hở eo cột sống, thoát vị đĩa đệm cột sống.

+ Một số trường hợp gây chèn ép lên rễ thần kinh gây đau, tê bì lan dọc xuống vùng tay và chân.

+ Với bệnh nhân là phụ nữ và người trung tuổi trở lên, hay gặp mật độ xương giảm, có thưa xương & loãng xương cột sống, việc tác động cột sống đột ngột & không kiểm soát lực sẽ dẫn tới tổn thương xẹp đốt sống, dẫn tới đau tăng và tăng chèn ép rễ thần kinh.

- Chèn ép tủy sống:

Tự xoay, vặn, bẻ cột sống cổ có thể gây sai lệch, biến dạng đốt sống và đĩa đệm gây chèn ép tủy sống.

+ Chèn ép tủy: Các triệu chứng thường gặp là: đau, tê vùng cổ, lưng lan xuống cánh tay một hoặc hai bên.

+ Trường hợp chèn ép nặng có thể gây liệt cấp tứ chi, sốc tủy gây rối loạn hô hấp và tuần hoàn, nguy hiểm đến tính mạng.

- Tác động mạnh vùng cột sống cổ sẽ tác động trực tiếp vào các động mạch vùng cổ có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ não.

3. Khuyến cáo dành cho người bệnh

- Việc duy trì thói quen tự bẻ khớp hoặc thực hiện xoay, bẻ khớp tại các cơ sở mát xa, phòng khám chui không được cấp phép, người thực hiện kỹ thuật không được đào tạo chuyên ngành chính quy, không được cấp phép chứng chỉ hành nghề có thể khiến khớp bị tổn thương, dần dần phát triển thành thoái hóa, viêm khớp hoặc thoát vị đĩa đệm cột sống.

- Việc thực hiện liệu pháp nắn chỉnh xương, cột sống cần tuân thủ nghiêm ngặt theo các quy tắc an toàn, thực hiện bởi các bác sĩ chuyên khoa được đào tạo bài bản tại các trường đào tạo được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Liên đoàn thần kinh cột sống thế giới (WFC) công nhận.

- Tại các Bệnh viện có chuyên khoa điều trị thần kinh cột sống (nội thần kinh, ngoại thần kinh, phẫu thuật cột sống), Khoa vật lý trị liệu- phục hồi chức năng, trước khi bắt đầu nắn chỉnh trị liệu thần kinh cột sống, các bác sĩ cần tiến hành kiểm tra cụ thể tình trạng của bệnh nhân, kết hợp triệu chứng lâm sàng và film chụp X-quang và film cộng hưởng từ MRI cột sống để nắm bắt chính xác tình trạng của bệnh nhân, gồm:
+ Chẩn đoán xác định bệnh.
+ Chẩn đoán mức độ bệnh và giai đoạn bệnh.
+ Tiên lượng bệnh.
+ Hướng điều trị.
+ Điều trị cụ thể trên từng bệnh nhân.

Hai bệnh nhân mắc cùng 1 bệnh nhưng phương pháp điều trị có thể khác nhau.

Vì bác sĩ sẽ xem xét các bệnh lý kết hợp và các yếu tố cụ thể trên từng người bệnh như mức độ, giai đoạn bệnh mà lựa chọn phương pháp điều trị tối ưu.

Với các bác sĩ được đào tạo chính quy, chúng tôi đều chung quan điểm: Điều trị người bệnh cụ thể, chứ không phải điều trị bệnh.

Tác giả bài viết: BSCKI. Chu Điển (Doctor Chu) - Tốt nghiệp Bác sĩ chuyên khoa I ngành Vật lý trị liệu và Phục hồi chức năng tại Học viện Quân y & Viện nghiên cứu y dược học lâm sàng 108 (Bệnh viện Trung ương Quân đội 108).

Cre Y Khoa Trực Tuyến.

Address

Đội 1 Trực Thuận_ Trực Ninh_ Nam định
Nam Định

Opening Hours

Monday 07:30 - 17:00
18:00 - 19:00
Tuesday 07:30 - 17:00
18:00 - 19:00
Wednesday 07:30 - 17:00
18:00 - 19:00
Thursday 07:30 - 17:00
18:00 - 19:00
Friday 07:30 - 17:00
18:00 - 19:00
Saturday 07:30 - 17:00
18:00 - 19:00
Sunday 07:30 - 17:00
18:00 - 19:00

Telephone

+84911150908

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Trung Tâm Phục Hồi Chức Năng posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Practice

Send a message to Trung Tâm Phục Hồi Chức Năng:

Share

Category