Tuệ Đức Y Đường

Tuệ Đức Y Đường Được thành lập năm 1941 do Cố Bác sĩ, lương y Vũ Hữu Huy tự Phúc Thái. Tốt nghiệp Trung Y Thượng Hải_ShangHai Medical University.

Nhà thuốc được thành lập năm 1941 do Cố Bác sĩ, lương y Vũ Hữu Huy tự Phúc Thái hiệu Thiện Năng Cư Sĩ (Tốt nghiệp trường Trung Y Thượng Hải_ShangHai Medical university). Với phương châm lấy Từ Bi và Trí Tuệ giúp đời giúp người, thủa sinh thời ông chưa bao giờ đòi hỏi bất kỳ một lệ phí nào với bệnh nhân cho dù phải làm thêm nhiều việc khác để sinh sống và duy trì chữa bệnh. Đó là một tấm gương sáng

cho những thế hệ sau này. Qua nhiều thăng trầm và các biến cố trong lịch sử, nhà thuốc vẫn duy trì hoạt động “giúp người, giúp đời”. Cùng với lời căn dặn của Tổ nghề “cần làm việc thiện, tránh làm việc ác, bình đẳng giúp người” các thế hệ của nhà thuốc đã giúp được khá nhiều bệnh nhân qua khỏi thậm chí cả những bệnh nan y. Trong quá trình hành thiện, có thời kỳ đời sống khó khăn cũng có lúc nhà thuốc tưởng chừng như không thể tiếp tục, cũng có lúc hoạt động chỉ cầm chừng nhưng với quyết tâm của các thế hệ sau này phải giữ cho bằng được nghề, phải hy sinh để làm sáng cái Đức mà tới nay nhà thuốc ngày một thêm phát triển. Với chủ trương, cho dù làm y học cổ truyền thì cũng phải khoa học, Cố Bác sĩ Vũ Hữu Huy đã mất rất nhiều công sức để nghiên cứu thực nghiệm cũng như thử nghiệm lâm sàng các bài thuốc bí truyền, cổ phương để đưa ra những sản phẩm thực sự tốt cho bệnh nhân. Về hoạt động khám chữa bệnh, nhà thuốc không lấy tiền khám bệnh, không lấy tiền chữa bệnh với các trường hợp khó khăn, hộ nghèo, các thương binh, bà mẹ Việt Nam anh hùng…
Hiện nay, nhà thuốc do Lương y, Y sĩ đa khoa Vũ Đức Thắng và Bác sĩ Y học cổ truyền Vũ Đức Việt (nguyên chủ nhiệm clb Y học cổ truyền, Đại học Y Hà Nội; cố vấn cao cấp tổ chức Sức khỏe gia đình thế giới_Family health international) đảm nhiệm
Nhà thuốc cam kết:
- Tận tâm, tận lực không quản ngại khó khăn giúp đỡ bệnh nhân hết sức có thể
- Bình đẳng với mọi bệnh nhân
- Lấy khoa học dẫn đường, đạo đức làm hành lang
- Châm cứu không lấy tiền với các đối tượng khó khăn, chính sách
- Hoàn trả mọi chi phí nếu điều trị không mang lại kết quả
- Với chủ trương phát triển cây Thuốc Nam, chúng tôi cam kết hướng dẫn trồng, sử dụng, chữa bệnh bằng thuốc Nam miễn phí
- Để đạt tới hiệu quả cao trong phòng và chữa bệnh, chúng tôi nhận hướng dẫn tập khí công, dưỡng sinh tại cộng đồng
Các hoạt động:
- Châm cứu và các phương pháp vật lý trị liệu, chữa bệnh không dùng thuốc
- Khám, bắt mạch, kê đơn…
- Hướng dẫn thiền, khí công
Địa chỉ: Số 9 Hẻm 65/2/1 Phúc Xá, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại: 043.716.6002;
Liên hệ điều trị: Lương y Vũ Đức Thắng 090.469.2963; Bác sĩ Vũ Đức Việt 090.486.6633. Liên hệ mua sản phẩm: 094.408.9900 (gặp cô Phương)

Mừng ngày thầy thuốc Việt Nam, xin gửi tới các thầy cô, anh chị em bạn bè đồng nghiệp cùng toàn thể các y bác sĩ trong c...
27/02/2025

Mừng ngày thầy thuốc Việt Nam, xin gửi tới các thầy cô, anh chị em bạn bè đồng nghiệp cùng toàn thể các y bác sĩ trong cả nước những lời tri ân và lời chúc tốt đẹp nhất!

PHÂN BIỆT CÁC LOẠI KÊ HUYẾT ĐẰNG VÀ HỒNG ĐẰNGKê huyết đằng (Spatholobus suberectus Dunn) và một số loài trong chi của nó...
05/11/2024

PHÂN BIỆT CÁC LOẠI KÊ HUYẾT ĐẰNG VÀ HỒNG ĐẰNG

Kê huyết đằng (Spatholobus suberectus Dunn) và một số loài trong chi của nó đều được đông y gọi chung là kê huyết đằng 鸡血藤. Việc phân biệt các loài trong chi này khá khó khăn thường sử dụng tiêu chí sự đồng tâm của vân hay màu sắc để phân biệt.
Vị thuốc Kê huyết đằng có vị ngọt, chát, tính ấm. Quy kinh can, thận. Có tác dụng bổ huyết, hoạt huyết, trừ phong thư cân mạnh cốt. Là vị thuốc thường dùng trong Đông y (cả thuốc Bắc lẫn thuốc Nam). Nó có mặt trong các bài thuốc chữa thiếu máu, trị bệnh xương khớp, bồi bổ can thận. Gần đây rất nhiều nơi quảng bá nó như một loại thần dược nên bài viết này xin cung cấp thêm thông tin để mọi người tiện phân biệt.
Kê huyết đằng có tên khoa học là Spatholobus suberectus thuộc họ Đậu Fabaceae. Khi trưởng thành thân dẹt, tâm lệch sang một bên, có những vân bán nguyệt chồng lên nhau. Khi phơi khô có màu cam đậm đến đỏ nhạt viền nâu đến huyết dụ.
Một vị khác là sơn kê huyết đằng 山鸡血藤 (hay Vân Nam kê huyết đằng hay Việt Nam kê huyết đằng) có tên khoa học là Callerya dielsiana thuộc họ đậu Fabaceae. Tác dụng tương tự như Kê huyết đằng nhưng hoạt huyết mạnh hơn. Loài này đa số thân tròn, có các vân đồng tâm, một số cây có hình dạng hơi dẹt giống kê huyết đằng nhưng vẫn có tâm vòng tròn ở giữa. Khi phơi khô có màu cam nhạt hơn.

Trong sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS Đỗ Tất Lợi có viết Kê huyết đằng có tên gọi khác là Hồng đằng nhưng khi tra dược điển TQ thấy cây Hồng đằng 红藤 (hay Đại huyết đằng 大血藤) là cây khác. Hồng đằng có tên khoa học là Sargentodoxa cuneata họ Mộc Thông Lardizabalaceae. Thân tròn khi cắt ra có hoa văn nan hoa đặc trưng của họ Mộc thông. Khi phơi khô màu cam nhạt vân có màu cam sẫm hơi đỏ. Hồng đằng có vị hơi đắng tính bình. Quy kinh Vị, Đại trường. Công dụng thanh nhiệt, giải độc, hoạt huyết, tiêu huyết, trừ phong. Hồng đằng hay được sử dụng trong các bệnh áp xe vùng bụng, đau bụng kinh, đái ra máu, chấn thương bầm tím, các bệnh cam tích.

Chợt nhận ra bản thân từ lâu đã rất quan tâm và có duyên với chuyên ngành ung thư. Chia sẻ lại bài viết về ung thư cách ...
04/11/2024

Chợt nhận ra bản thân từ lâu đã rất quan tâm và có duyên với chuyên ngành ung thư. Chia sẻ lại bài viết về ung thư cách đây 10 năm như một kỷ niệm.
https://www.facebook.com/share/p/15CSN25EMt/

NGUY CƠ VÀ LỢI ÍCH CỦA VIỆC SỬ DỤNG NHÂN SÂM CHO BỆNH NHÂN UNG THƯNhân sâm được biết đến từ “Thần nông bản thảo”, tài li...
04/11/2024

NGUY CƠ VÀ LỢI ÍCH CỦA VIỆC SỬ DỤNG NHÂN SÂM CHO BỆNH NHÂN UNG THƯ

Nhân sâm được biết đến từ “Thần nông bản thảo”, tài liệu có ghi chép: Vị hơi ngọt, tính hơi lạnh, tác dụng cải tiến chức năng lục phủ ngũ tạng, loại bỏ những điều không tốt, sáng mắt, bổ trí não, tăng thông minh, giúp cơ thể nhẹ nhõm. Nhân sâm được sử dụng cho mục đích tăng cường sức khỏe, được xếp vào một trong bốn loại thuốc quý (Sâm – Nhung – Quế – Phụ) từ lịch sử hơn 2000 năm trước. Đối với bệnh ung thư, vai trò hỗ trợ điều trị của Nhân sâm vẫn còn nhiều tranh cãi và chưa sáng tỏ. Bài viết sau đây hy vọng sẽ phần nào giúp bạn đọc hiểu thêm vai trò của Nhân sâm đối với sức khỏe bệnh nhân ung thư, cũng như những nguy cơ gặp phải trong quá trình sử dụng Nhân sâm.

1. Một số đặc điểm của Nhân sâm
Hiện nay trên thế giới đã có 11 loài Nhân sâm thuộc chi Panax đã được nhận dạng, Nhân sâm châu Á gồm có Panax notoginseng, Panax japonica và Panax ginseng; Nhân sâm ở châu Mỹ như Panax quinquefolius [18]. Nhân sâm có thành phần hóa học đa dạng. Ngoài các protein và carbohydrate, Nhân sâm còn chứa tinh dầu dễ bay hơi, các ginsenoside (ginseng saponins), các amino acid, vitamin và acid béo. Ginsenoside là thành phần hóa học chủ yếu tồn tại trong rễ, có hoạt tính sinh học cao, đã có hơn 100 loại ginsenoside được phân lập từ các loại Nhân sâm khác nhau [2]. Nhân sâm châu Á Panax ginseng chứa 38 loại ginsenoside khác nhau, trong khi Nhân sâm Mỹ Panax quinquefolius chỉ có 19 loại ginsenoside [9]. Hơn nữa, Panax ginseng cũng chứa nhiều hoạt chất không là saponin hơn bao gồm hợp chất K, acid polysaccharide và hợp chất polyethylene, được cho rằng có lợi với sức khỏe hơn so với Panax quinquefolius [2]. Cho tới thời điểm hiện tại, Panax ginseng được tiến hành nghiên cứu nhiều và sử dụng phổ biến nhất trong tất cả các loại Nhân sâm. Các yếu tố được chứng minh có thể ảnh hưởng tới hàm lượng ginsenoside trong Nhân sâm bao gồm độ tuổi của Nhân sâm, loại Nhân sâm, đất trồng, ánh sáng và cách chế biến. Nhân sâm tươi, thu hoạch dưới 4 năm có tác dụng dược lý thấp nhất, thường được sử dụng làm nguyên liệu nấu ăn. Rễ của Panax ginseng được thu hoạch sau 5 năm hoặc hơn chứa khoảng 1-2% ginsenoside [18]. Phân loại Nhân sâm theo cách chế biến bao gồm: bạch sâm, hồng sâm, hắc sâm và sâm tươi. Hồng sâm có màu nâu đậm được chế biến bằng cách chọn những củ sâm to, trên 6 năm tuổi, được rửa sạch và hấp ở nhiệt độ 98 -100 độ C, sau đó sấy khô đến khi độ ẩm dưới 15%. Những củ sâm không đủ tiêu chuẩn làm Hồng sâm thì chế biến thành Bạch sâm, được phơi dưới nắng 7-15 ngày, có màu trắng, độ ẩm dưới 15%. Trong khi Hồng sâm chưng cất và sấy khô một lần, Hắc sâm cần phải được chưng cất và sấy khô 9 lần. Còn Sâm tươi là sâm được thu hoạch sau 4-6 năm, chưa được sơ chế, có độ ẩm 75% [1].

2. Nghiên cứu tác dụng của Nhân sâm trên ung thư
Tiềm năng kháng tế bào ung thư của các ginsenoside trong Nhân sâm phụ thuộc vào công thức hóa học, cấu trúc không gian, số phân tử đường gắn vào các vị trí trên khung saponin [17], [9]. Hai phần aglycon chính của saponin trong cấu trúc của Nhân sâm là protopanaxadiol và protopanaxatriol. Phần R1, R2 có thể được gắn với các loại đường khác nhau.
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu đánh giá khả năng kháng tế bào ung thư của ginsenoside hay chiết xuất của Nhân sâm trên các dòng tế bào nuôi cấy trong phòng thí nghiệm [17], song vẫn chưa có thử nghiệm lâm sàng nào cho thấy hiệu quả điều trị bệnh ung thư của Nhân sâm trên lâm sàng [25]. Tuy vậy, đã có một số nghiên cứu lâm sàng cho thấy Nhân sâm được xem như một yếu tố hỗ trợ điều trị và cải thiện chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư (Xem phần 2.2 và 2.3).
2.1. Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của Nhân sâm đến nguy cơ mắc ung thư
Nghiên cứu bệnh – chứng trên 1987 bệnh nhân Hàn Quốc cho thấy sử dụng Hồng sâm giúp giảm nguy cơ mắc phải ung thư ác tính bao gồm: ung thư phổi, đại trực tràng. Tuy nhiên, kết quả phân tích không cho thấy sử dụng Hồng sâm có khả năng làm giảm nguy cơ mắc các loại ung thư như ung thư vú, tử cung, tuyến giáp hay bàng quang trên phụ nữ [30]. Kết quả từ một nghiên cứu khác trên 4634 người Hàn Quốc 40 tuổi trở lên cho thấy những người sử dụng Nhân sâm có tỷ lệ mắc ung thư giảm so với những người không sử dụng [29]. Ngoài ra, sử dụng Hồng sâm 1g mỗi tuần trong vòng 3 năm liên tiếp đối với bệnh nhân bị viêm dạ dày mãn tính được chứng minh có khả năng làm giảm nguy cơ mắc ung thư đường tiêu hóa trong vòng 8 năm theo dõi sau đó. Bên cạnh những nghiên cứu cho thấy sử dụng Nhân sâm có khả năng làm giảm nguy cơ mắc ung thư, có một số nghiên cứu không cho thấy mối liên kết này tồn tại. Phân tích gần 75000 phụ nữ độ tuổi từ 40 đến 70 trong một nghiên cứu về sức khỏe phụ nữ Thượng Hải, Trung Quốc cho thấy không có mối liên kết giữa giảm hay tăng nguy cơ mắc ung thư tiêu hóa và sử dụng các loại Nhân sâm khác nhau [13]. Trong một phân tích khác trên hơn 35000 nam giới độ tuổi từ 50 đến 76 của nghiên cứu VITAL, kết quả cho thấy, sử dụng Nhân sâm không ảnh hưởng tới việc tăng hay giảm nguy cơ mắc ung thư tiền liệt tuyến [6].
2.2. Nghiên cứu đánh giả ảnh hưởng của Nhân sâm đến tỷ lệ tử vong của bệnh nhân ung thư
Một nghiên cứu của nhóm tác giả Cui Y. và cộng sự đã đánh giá ảnh hưởng của Nhân sâm trên 1455 bệnh nhân ung thư vú được tuyển chọn từ trung tâm Ung thư vú ở Thượng Hải, Trung Quốc từ 08/1996 đến tháng 03/1998 thông qua bộ câu hỏi khảo sát để xác định các đầu ra liên quan đến ung thư vú. Kết quả cho thấy những phụ nữ ung thư vú sử dụng Nhân sâm bên cạnh phẫu thuật/xạ trị/hóa trị có nguy cơ tái phát khối u và nguy cơ tử vong thấp hơn so với những người chưa từng sử dụng Nhân sâm [10]. Sử dụng Hồng sâm với mức liều 4,5g mỗi ngày trong vòng 6 tháng sau khi phẫu thuật và hóa trị trên 42 bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn III cũng được chứng minh làm giảm đáng kể tái phát khối u trong 4,5 năm theo dõi sau đó [24]. Kết quả từ một nghiên cứu tiến cứu trên hơn 6000 bệnh nhân ung thư trên 55 tuổi có sử dụng Nhân sâm trong quá trình điều trị ung thư của nhóm tác giả Sang-Wook Yi và cộng sự cho thấy sử dụng Nhân sâm làm chỉ làm giảm tỷ lệ tử vong trên nam giới mà không giảm trên nữ giới [28].
2.3. Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của Nhân sâm đến chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư
Đã có một số nghiên cứu đánh giá vai trò của việc sử dụng Nhân sâm trong cải thiện chất lượng cuộc sống trên bệnh nhân ung thư thông qua bộ câu hỏi khảo sát chất lượng cuộc sống bệnh nhân trên các tiêu chí về sức khỏe tinh thần, thể lực, thích nghi xã hội. Tuy nhiên, kết quả của các nghiên cứu vẫn còn nhiều mâu thuẫn, chưa thể đi đến thống nhất. Nghiên cứu trên 1455 bệnh nhân ung thư vú được tuyển chọn từ trung tâm ung thư tại Thượng Hải, Trung Quốc cho thấy nhóm bệnh nhân sử dụng Nhân sâm có điểm chất lượng cuộc sống được cải thiện hơn so với nhóm bệnh nhân không sử dụng [10]. Chất lượng cuộc sống được đánh giá thông qua bộ câu hỏi chất lượng chung gồm 74 tiêu chí (General Quality of Life Inventory – 74) được chia thành 4 nhóm: sức khỏe tinh thần, thể chất, khả năng hòa nhập xã hội và tình trạng kinh tế. Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, đối chứng, mù đôi trên 53 bệnh nhân ung thư chia làm hai nhánh, một nhánh sử dụng Nhân sâm mức liều 3g mỗi ngày liên tiếp trong 12 tuần, một nhánh sử dụng giả dược thay thế. Kết quả cho thấy nhóm bệnh nhân được sử dụng Nhân sâm có điểm chất lượng cuộc sống cao hơn so với nhóm sử dụng giả dược [14]. Sử dụng Nhân sâm mức liều 2g mỗi ngày trong vòng 16 tuần cũng được chứng minh cải thiện tình trạng ốm yếu, khả năng vận động và chất lượng cuộc sống trên bệnh nhân ung thư đại trực tràng được hóa trị với oxaliplatin [27]. Năm 2012, nhóm tác giả Bao PP và cộng sự đã tiến hành đánh giá ảnh hưởng của Nhân sâm trên hơn 4000 phụ nữ từ trung tâm Ung thư vú tại Thượng Hải. Kết quả nghiên cứu cho thấy sử dụng Nhân sâm với thời gian từ 6 tháng, 18 tháng hay 36 tháng liên tục sau khi bị chẩn đoán ung thư vú không giúp cải thiện sức khỏe và chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân [4]. Như vậy, cho đến hiện tại vẫn chưa có đủ bằng chứng lâm sàng để khẳng định tác dụng điều trị ung thư của Nhân sâm. Đồng thời, các bằng chứng lâm sàng chứng minh khả năng hỗ trợ điều trị, giảm nguy cơ mắc bệnh cũng như cải thiện chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư còn nhiều điểm bất đồng và chưa sáng tỏ. Tuy nhiên, không thể phủ nhận hoàn toàn tiềm năng hỗ trợ điều trị ung thư của Nhân sâm – một dược liệu có tính an toàn cao khi sử dụng ở mức liều hợp lý. Vậy có nên sử dụng Nhân sâm bên cạnh các liệu pháp điều trị chính thống khác trên bệnh nhân ung thư, và những nguy cơ bệnh nhân có thể gặp phải là gì?

3. Tác dụng phụ khi sử dụng Nhân sâm
Nhân sâm là một loại dược liệu khá an toàn khi sử dụng ở mức liều 3g đến 9g dạng bột rễ Nhân sâm mỗi ngày [7]. Tuy nhiên, người sử dụng có thể gặp một số tác dụng không mong muốn nếu tăng mức liều này lên hay sử dụng thời gian dài trên 6 tháng. Năm 1979, Siegel và cộng sự đã lần đầu tiên nhắc đến hội chứng “lạm dụng Nhân sâm” với các biểu hiện kích thích thần kinh, rối loạn tâm thần, thay đổi hành vi, nổi ban đỏ ở da, tiêu chảy trên những người sử dụng Nhân sâm ở mức liều 15g mỗi ngày [23]. Nôn và buồn nôn được ghi nhận trên những người khỏe mạnh sử dụng mức liều 200mg dịch chiết Nhân sâm mỗi ngày trong 3 tuần liên tiếp dùng Nhân sâm để hỗ trợ chức năng tim mạch [8]. Những triệu chứng khó chịu đường tiêu hóa như táo bón hay tiêu chảy cũng xuất hiện trong các thử nghiệm lâm sàng được Lee NH và cộng sự phân tích tổng quan [16]. Độc tính gan nặng được báo cáo khi sử dụng Nhân sâm trong quá trình bệnh nhân bị bệnh bạch cầu cấp được điều trị với imatinib, vì vậy bệnh nhân cần tránh sử dụng đồng thời imatinib và Nhân sâm [5]. Hạ đường huyết, đau đầu, nhìn mờ, thiếu máu và kích động được ghi nhận trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2 sử dụng Nhân sâm [15].

4. Tương tác thuốc khi sử dụng cùng với Nhân sâm
Tương tác thuốc sử dụng cùng Nhân sâm hiếm khi xảy ra, tuy nhiên một số nghiên cứu về dược lý cho rằng cần phải giám sát việc sử dụng đồng thời Nhân sâm cùng với warfarin hay một số thuốc chuyển hóa qua CYP3A hay các thuốc là cơ chất của P-glycoprotein (P-gp), một loại bơm tống thuốc từ tế bào trở lại lòng ruột [21]. Cơ chất của P-gp bao gồm rất nhiều thuốc có khoảng điều trị hẹp như digoxin, các thuốc ức chế miễn dịch cyclosporin, tacrolimus, các thuốc điều trị ung thư như vincristin, paclitaxel, các thuốc kháng retrovirus như ritonavir, saquinavir…[22]. Ngoài ra, Nhân sâm có khả năng ảnh hưởng tới tác dụng của một số loại thuốc điều trị trầm cảm, thuốc hạ đường huyết, thuốc hạ lipid máu hay liệu pháp hormon. Bên cạnh đó, những bệnh nhân đang được điều trị với thuốc chống kết tập tiểu cầu, thuốc chống đông máu hay warfarin không nên sử dụng Nhân sâm để tránh nguy cơ xuất huyết [20]. Tuy vậy, một số ginsenoside trong nhân sâm lại có tác dụng ức chế sự kháng thuốc của tế bào ung thư trong các phác đồ hóa trị liệu. Ginsenoside Rh2 được chứng minh có khả năng làm tăng hiệu quả hóa trị liệu trên bệnh nhân ung thư [12]. Tuy nhiên, ginsenoside Rh2 được hấp thu qua đường tiêu hóa rất kém (dưới 5%), điều này làm hạn chế hiệu quả sử dụng của nó [26].

5. Kiểm soát chất lượng Nhân sâm
Thuốc bảo vệ thực vật Do nhu cầu sử dụng ngày càng tăng, nguồn nhân sâm trở nên khan hiếm hơn. Hiện tại, Nhân sâm được trồng chính ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và một số nước khác. Tuy nhiên, để đảm bảo cung ứng đủ số lượng Nhân sâm cho nhu cầu sử dụng hiện nay, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, chất hóa học kích thích dần trở nên phổ biến. Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật đã được phát hiện trong một số sản phẩm nội địa Hàn Quốc có nguồn gốc sản xuất từ Nhân sâm 4 – 6 tuổi trồng ở bốn vùng nông nghiệp khác nhau của tỉnh Jeonnam của Hàn Quốc [19]. Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cũng phát hiện ra 22 trong số 31 loại sâm nhập khẩu có nguồn gốc từ Canada, Hồng Kông, Trung Quốc, và Hàn Quốc dưới dạng rễ khô, dạng bột, dịch chiết xuất lỏng hay cô đặc được đóng gói ở Hoa Kỳ chứa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật dễ bay hơi [11]. Chất pha trộn trái phép không được khai báo Chất pha trộn vào các thực phẩm chức năng có nguồn gốc từ Nhân sâm cũng là một vấn đề cần được quản lý chặt chẽ hiện nay. Tháng 08/2014, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã cảnh cáo đối với một sản phẩm được làm từ Nhân sâm có tên gọi là “Sâm Kianpi Pil” – sản phẩm này được quảng cáo có khả năng làm giảm bớt mệt mỏi, giúp thèm ăn, tăng cân, tăng sức đề kháng cho cơ thể, tăng cường miễn dịch, bổ trí não (https://www.drugs.com/fda-alerts/2370-0.html). Tuy nhiên, phòng nghiên cứu của FDA đã phát hiện trong sản phẩm này có chứa dexamethasone (thuốc chống viêm corticoid tổng hợp) và cyproheptadine (thuốc kháng histamin chống dị ứng), trong khi những thành phần này không được khai báo trên thành phần đăng ký nhãn sản phẩm. Việc trộn Tân dược vào các sản phẩm Nhân sâm nhằm mục đích để người bệnh thấy được tác dụng nhanh chóng là một vấn đề hết sức nguy hiểm đến tính mạng của người bệnh, cần được cơ quan quản lý giám sát chặt chẽ.

Kết luận
Kết quả một số thử nghiệm lâm sàng gần đây đã cho thấy Nhân sâm có tiềm năng hỗ trợ điều trị cũng như nâng cao sức khỏe cho bệnh nhân ung thư. Tuy nhiên, các nghiên cứu còn có quy mô nhỏ, chủ yếu thiết kế nghiên cứu bệnh – chứng và kết quả chưa hoàn toàn sáng tỏ, còn nhiều điểm bất đồng giữa các nghiên cứu. Vì vậy, trong tương lai cần có những nghiên cứu sâu hơn để đánh giá vai trò của Nhân sâm đối với sức khỏe của bệnh nhân ung thư. Đồng thời, hiện nay đã có rất nhiều sản phẩm làm từ Nhân sâm được sử dụng rộng rãi trên thị trường. Thống kê trong năm 2009 cho thấy thế giới sử dụng 1,3 tỷ USD cho các sản phẩm từ Nhân sâm, với nguồn cung cấp lớn nhất từ Hàn Quốc, sau đó là Trung Quốc, Canada, Hoa Kỳ [3]. Do vậy, việc nghiên cứu phát triển, đảm bảo chất lượng từ khâu gieo trồng đến khâu thu hoạch, chế biến, đóng gói và bảo quản Nhân sâm trong tương lai cần được quan tâm, giám sát chặt chẽ hơn. Bên cạnh đó, sử dụng Nhân sâm có thể gây ra tác dụng phụ và tương tác với một số thuốc nếu sử dụng quá liều hay trong một thời gian dài, vì vậy việc theo dõi và cân nhắc nguy cơ – lợi ích khi sử dụng Nhân sâm bởi những người có chuyên môn y tế là rất cần thiết. Xin bạn đọc lưu ý, bài viết này chỉ được xem như một tài liệu tham khảo, cách tiếp cận và lý giải vấn đề trong bài viết không nhằm mục đích tuyên truyền chữa trị bất cứ bệnh nào. Trong mọi trường hợp điều trị bệnh, hãy tham vấn ý kiến chuyên môn y tế để hiểu rõ về bệnh tình của bạn.

Nguồn: Nguyễn Thị Uyên - https://ruybangtim.com/nguy-co-loi-ich-nhan-sam-dieu-tri-ung-thu/

THỰC HƯ VỀ TÁC DỤNG CỦA NỌC BỌ CẠP XANH CUBA TRONG CHỮA UNG THƯBọ cạp xanh Cuba (tên khoa học Rhopalurus Junceus) là một...
04/11/2024

THỰC HƯ VỀ TÁC DỤNG CỦA NỌC BỌ CẠP XANH CUBA TRONG CHỮA UNG THƯ

Bọ cạp xanh Cuba (tên khoa học Rhopalurus Junceus) là một loài sinh vật đặc hữu trong 36 loại bọ cạp khác nhau được tìm thấy trên các đảo Cuba, Cộng hòa Dominica và một phần Trung Mỹ. Nó được gọi là “bọ cạp xanh” do tông màu xanh đặc biệt ở đuôi. Ngoài ra, nó còn được gọi là “bọ cạp đỏ” vì có thân màu đỏ sẫm. Nọc độc bọ cạp xanh Cuba là một dịch chiết tự nhiên được cho rằng có tiềm năng chống ung thư và không gây độc tính trên người.

Đã có nhiều sản phẩm từ nọc độc bọ cạp xanh Cuba trên thị trường như các sản phẩm Vidatox, được quảng cáo có tác dụng điều trị ung thư cũng như giảm đau, giảm viêm, tăng sức đề kháng cho bệnh nhân ung thư. Tuy vậy, các thông tin về thành phần và tác dụng sinh học của nọc độc bọ cạp xanh Cuba vẫn còn rất hạn chế, chưa được nghiên cứu nhiều và công bố rộng rãi.

Vì vậy, trong khuôn khổ hạn hẹp, bài viết sẽ đưa ra một số thông tin nghiên cứu đã được công bố về nọc độc bọ cạp xanh Cuba trong điều trị ung thư, hy vọng độc giả sẽ tìm được những kiến thức bổ ích và có một cái nhìn khách quan hơn. Đặc biệt là có thể tìm được lời giải đáp cho “tin đồn”: Nọc độc bọ cạp xanh Cuba có phải là thuốc điều trị ung thư hay không?

Vài nét về nọc độc bọ cạp xanh Cuba

Bọ cạp là một trong những động vật lâu đời nhất trên trái đất với hơn 450 triệu năm tiến hóa, gồm khoảng 1750 loài khác nhau. Bọ cạp và nọc độc bọ cạp được sử dụng như một phương pháp y học cổ truyền cách đây hàng nghìn năm ở nhiều nước như Trung quốc, Ấn Độ và các nước châu Mỹ. Trong y học cổ truyền Việt Nam, bọ cạp nếu được dùng nguyên con được gọi là toàn yết, chỉ dùng đuôi được gọi là yết vĩ. Bọ cạp có thể được ngâm trong cồn dùng làm thuốc chữa đau cơ, xương rất hiệu quả, cũng có thể sắc thuốc để trị bệnh kinh giật, co quắp, méo miệng, bán thân bất toại, uốn ván…[1].

Nọc bọ cạp là hỗn hợp gồm các thành phần như: enzyme, peptide, nucleotide, lipid, mucoprotein, những biogenic amin và các thành phần chưa biết. Các enzyme có hoạt tính sinh học trong nọc độc bọ cạp bao gồm phospholipase A2 (PLA2), hyaluronidase, phosphatase và acetyl cholinesterases, proteolysis, trong đó PLA2 và các proteolysis được cho rằng góp phần chính vào việc gây độc tính cao trên động vật có vú. Ngoài ra, các polypeptide neurotoxin cũng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Các neurotoxin này gây tác dụng lên các kênh ion của tế bào thần kinh bị kích thích và qua đó tác dụng lên hệ thần kinh trung ương, thần kinh thực vật, tim mạch và hô hấp [5].

Gần đây, nọc độc bọ cạp xanh Cuba – tên khoa học là Rhopalurus Junceus, thuộc họ Buthidae – một loại bọ cạp khá hiếm ở Cuba, đã được phát triển thành thuốc có công dụng giảm đau, giảm viêm và hỗ trợ điều trị cho bệnh nhân ung thư ở Cuba. Năm 2004, cơ quan Sở hữu công nghiệp Cuba (OCPI) đã cấp bằng sáng chế nọc độc bọ cạp xanh Cuba cho công ty Labiofam, cho phép bộ Khoa học Công nghệ, viện Ung thư và xạ trị Cuba, Đại học Havana, Bệnh viện nhiệt đới Pedro Kouri tham gia nghiên cứu. Nọc độc bọ cạp xanh Cuba được thu bằng cách sử dụng một dòng điện xung kích thích vào phần đuôi chích của bọ cạp để buộc bọ cạp tiết nọc.

Tuy đã được phát triển thành thuốc tại Cuba, song các nghiên cứu về thành phần có hoạt tính, tác dụng dược lý của nọc độc bọ cạp xanh Cuba rất hiếm được tìm thấy trên các tạp chí khoa học. Đã có một nghiên cứu đánh giá thành phần của nọc độc bọ cạp xanh Cuba, cho thấy trong thành phần của chúng có một số thành phần được cho rằng có hoạt tính như phospholipase, hyaluronidase, chất kháng viêm và một số peptide khác (chủ yếu là RjAa 12f) [6]. Nọc độc bọ cạp xanh Cuba không gây độc cho chuột khi tiêm màng bụng với mức liều tới 200 µg/20g cân nặng. Song, nó gây chết côn trùng (loài dế Acheta domestica) với mức liều 10 µg mỗi con. Bên cạnh đó, nọc độc bọ cạp xanh cũng được chứng minh không chứa các enzyme có độc tính cao như Phospholipase A2 hay các enzyme phân giải protein như caseinolytic, gelatinolytic [4]. Đây có thể là nguyên nhân khiến nọc độc bọ cạp xanh Cuba có độc tính thấp hơn so với các loại bọ cạp khác. Ngoài ra, một nghiên cứu của Rodolfo Rodríguez-Ravelo và cộng sự cho thấy thành phần nọc độc bọ cạp xanh Cuba ở các vùng địa lý khác nhau trên Cuba bao gồm Moa, La Poa, Limonar, El Chote và Farallones tương tự nhau [12].

Theo cuốn sách “Venoms to Drugs: Venom as a Source for the Development of Human Therapeutics” của nhà xuất bản Hội hóa học Hoàng gia Anh, cho đến thời điểm tái bản cuốn sách năm 2015, chưa có thông tin nào về cơ chế kháng ung thư cũng như các thành phần trong nọc độc bọ cạp xanh Cuba kháng ung thư được công bố khoa học [9]. Và cho tới hiện nay, vẫn chưa có nghiên cứu toàn diện nào đánh giá cơ chế tác động lên tế bào ung thư của các thành phần có hoạt tính chiết từ nọc độc bọ cạp xanh Cuba cũng như tiến hành phân lập xác định các thành phần này. Tương lai rất cần thêm những nghiên cứu sâu hơn về thành phần và hoạt tính sinh học để làm sáng tỏ tiềm năng kháng ung thư của nọc độc bọ cạp xanh Cuba.

Các nghiên cứu trên tế bào ung thư

Tìm kiếm nâng cao các dữ liệu về nọc độc bọ cạp xanh Cuba ảnh hưởng đến tế bào ung thư trên các công cụ tìm kiếm bài báo khoa học uy tín bao gồm Pubmed, Sciencedirect, Scientific Reports hay Google Scholar trong những thập niên gần đây cho thấy: Các nghiên cứu còn rất hạn chế, đặc biệt chưa có nghiên cứu nào trên lâm sàng được tìm thấy.

Dưới đây là các nghiên cứu in vitro (trong phòng thí nghiệm) và in vivo (trên động vật) về ảnh hưởng của nọc độc bọ cạp xanh Cuba đến tế bào ung thư tìm được.

Nghiên cứu năm 2013 của Díaz-García A và các cộng sự người Cuba đã tiến hành đánh giá ảnh hưởng của nọc độc tế bào bọ cạp xanh Cuba trên các dòng ung thư khác nhau ở trong phòng thí nghiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy dịch chiết nọc độc bọ cạp xanh có độc tính đáng kể và chọn lọc trên dòng tế bào ung thư biểu mô, trong khi dịch chiết này không gây ảnh hưởng lên dòng tế bào bình thường. Các dòng tế bào ung thư được chứng minh nhạy cảm với nọc độc bọ cạp xanh Cuba bao gồm: dòng tế bào ung thư phổi (A549, NCI-H292), dòng tế bào ung thư vú (MDA-MB-231, MDA-MB-468) và dòng tế bào ung thư cổ tử cung (Hela). Nồng độ nọc độc bọ cạp xanh trong khoảng 0,1-0,75mg/ml có tác dụng làm giảm tỷ lệ sống sót của các tế bào này xuống 50% [2]. Nghiên cứu này được xem là bằng chứng khoa học đầu tiên chứng minh ảnh hưởng của nọc độc bọ cạp xanh Cuba đến khả năng sống sót của tế bào ung thư của người ở mức độ trong phòng thí nghiệm, là tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo về nọc độc bọ cạp xanh Cuba ảnh hưởng đến tế bào ung thư trên người và động vật.

Tiếp nối nghiên cứu trên, năm 2017, nhóm nghiên cứu này đã tiếp tục đánh giá cụ thể hơn ảnh hưởng của nọc độc bọ cạp xanh Cuba (được cung cấp bởi công ty Labiofam) trên dòng tế bào ung thư vú bộ ba âm tính (MDA-MB-231). Nghiên cứu cho thấy nọc độc bọ cạp xanh Cuba làm ức chế sự phát triển và điều hòa gen gây thúc đẩy chu trình tự chết tế bào ung thư vú [3]. Hai nghiên cứu này đều là nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, ít có giá trị lâm sàng, chưa thể khái quát sang người. Ngoài ra, cả hai nghiên cứu trên đều được tiến hành bởi nhóm nghiên cứu của Díaz-García A tại trung tâm nghiên cứu của công ty Labiofam (nơi sản xuất Vidatox đưa ra thị trường).

Thời điểm năm 2014, đã có một phân tích tổng quan hệ thống các nghiên cứu đánh giá về nọc độc của các loài bọ cạp khác nhau từ Trung Quốc, Ấn Độ và Châu Mỹ trên khả năng ức chế tế bào ung thư. Một số thành phần trong các loài bọ cạp này đã cho thấy có khả năng ức chế tế bào ung thư mức độ in vitro bao gồm BmK AGAP, BmKCT, Chlorotoxin, Iberiotoxin, Magatoxin, Charybdotoxin, Bengalin. Tuy nhiên, bài tổng quan này không nhắc đến loài bọ cạp xanh Cuba (Rhopalurus Junceus). Các nghiên cứu về nọc độc bọ cạp trong bài báo này cũng đều tiến hành trong phòng thí nghiệm, chưa được thực hiện trên lâm sàng. Bên cạnh đó, việc chiết xuất và xác định đặc tính, liều lượng của thành phần có hoạt tính sinh học chống ung thư từ nọc độc các loại bọ cạp vẫn chưa được rõ ràng, còn là một thách thức lớn cho các nhà khoa học [5].

Năm 2017, Catia Giovannini và cộng sự, một nhóm nhà khoa học nghiên cứu độc lập người Ý, đã tiến hành nghiên cứu đánh giá tác dụng của nọc độc bọ cạp xanh Cuba trên mô hình chuột bị gây ung thư tế bào gan [7]. Kết quả nghiên cứu cho thấy Vidatox không có tác dụng ngăn sự phát triển tế bào ung thư mà còn gây gia tăng tiến triển và xâm lấn của khối u gan. Sau khi đăng trên Nature – một tập san khoa học rất uy tín, tựa đề đầu tiên của bài báo đã sửa từ “Venom from Cuban Blue Scorpion has tumor activating effect in hepatocellular carcinoma” thành “Vidatox 30 CH has tumor activating effect in hepatocellular carcinoma”. Nguyên nhân sự thay đổi này là do nọc độc bọ cạp xanh Cuba được sử dụng trong nghiên cứu chính là chế phẩm Vidatox 30CH của công ty Labiofam [8]. Mặc dù nghiên cứu này chỉ tiến hành trên chuột và chưa được đánh giá trên lâm sàng, song việc thận trọng khi sử dụng sản phẩm Vidatox trên bệnh nhân ung thư tế bào gan rất đáng cân nhắc.

Gần đây, Mohammadreza Moradi và cộng sự đã đánh giá tổng quan hệ thống về tác dụng kháng ung thư của các loại nọc độc bọ cạp nói chung, được công bố vào tháng 06/2018 [10]. Bằng cách tìm kiếm chuẩn theo hướng dẫn PRISMA (Preferred Reporting Items for Systematic Reviews and Meta-Analyses ) – một hướng dẫn chuẩn về công cụ phân tích hệ thống để thu lại những bài phân tích chất lượng nhất trên các nguồn thông tin khoa học uy tín. Kết quả thu được khá khiêm tốn khi chỉ có 53 nghiên cứu được công bố, trong đó có 40 nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, 13 nghiên cứu trên động vật và chưa có nghiên cứu nào trên người. Trong 53 nghiên cứu này, chỉ có một nghiên cứu đánh giá nọc độc của loài bọ cạp xanh Cuba, chính là nghiên cứu của nhóm tác giả Díaz-García A, phòng nghiên cứu và phát triển của công ty Labiofam sản xuất Vidatox. Rõ ràng nhận thấy các nghiên cứu về nọc độc bọ cạp xanh Cuba rất ít, đặc biệt chưa có thử nghiệm nào cho thấy hiệu quả kháng ung thư trên động vật hay người được công bố khoa học.

Như vậy, kết quả tìm thấy các nghiên cứu của nọc độc bọ cạp xanh Cuba có hiệu quả trên tế bào ung thư còn rất ít, chỉ được tiến hành trong phòng thí nghiệm. Chưa có nghiên cứu thực hiện trên động vật và người được công bố rộng rãi. Đáng chú ý hơn, đã có một nghiên cứu được công bố trên tạp chí nổi tiếng Nature cho thấy sự bất lợi của Vidatox – sản phẩm từ nọc độc bọ cạp xanh Cuba, trên mô hình động vật bị gây ung thư gan. Từ nghiên cứu này, rất cần thiết khuyến cáo bệnh nhân ung thư gan không nên sử dụng nọc độc bọ cạp xanh Cuba để tránh những biến cố bất lợi đáng tiếc.

Sản phẩm từ nọc độc bọ cạp xanh Cuba Hiện nay, nọc độc bọ cạp xanh Cuba đã chiết xuất và được hãng Dược phẩm Labiofam của Cuba chính thức cho ra mắt thị trường với tên gọi Vidatox CH30 vào tháng 03/2011, được Cục Dược Cuba (CECMED) phê duyệt là thuốc có tác dụng bổ sung điều trị triệu chứng trên bệnh nhân ung thư và giảm đau (https://www.cecmed.cu/registro/rcp/vidatoxr-30-ch).

Dưới đây là ảnh chụp tờ thông tin sản phẩm Vidatox 30CH được cục Dược CuBa phê duyệt.Tuy nhiên, kết quả tìm kiếm trên các trang web chính thức của hai cơ quan FDA (https://www.fda.gov/) và EMA (https://www.ema.europa.eu/en) cho thấy cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA – Food and Drug Administration) cũng như cơ quan quản lý dược phẩm châu u (EMA – European Medicines Agency) đều chưa phê duyệt Vidatox là thuốc, mà Vidatox chỉ được lưu hành dưới dạng thuốc không chính thức hay thực phẩm chức năng tại các nước như Mỹ, Châu u, Trung Quốc, Ấn Độ hay một số nước châu Phi, châu Á khác. Theo nhiều nguồn thông tin không chính thống trên internet, Vidatox đã được thử nghiệm trên hơn 10000 bệnh nhân ung thư và kết quả nghiên cứu cho thấy Vidatox cải thiện đáng kể chất lượng sống cũng như làm ngăn chặn sự tiến triển của khối u cho bệnh nhân ung thư (https://www.littlemountainhomeopathy.com/effective-cancer-treatment-with-popular-cuban-homeopathic-drug-vidatox; https://vidatoxromania.ro/en/what-is-vidatox/; https://www.mcgill.ca/oss/article/health-quackery/blue-scorpion-venom-cancer…). Thêm vào đó, theo ông Fabio de J.Linares Pazos, Giám đốc phòng sản xuất của công ty Labiofam, Vidatox đã được chứng minh có hiệu quả kéo dài thời gian sống toàn bộ cho 96% bệnh nhân trên 174 bệnh nhân ung thư tham gia nghiên cứu, bệnh nhân được nhỏ dưới lưỡi 5 giọt Vidatox cách mỗi 12 giờ trong khoảng thời gian nghiên cứu kéo dài từ ngày 3/12/2007 đến ngày 2/2/2010 (https://pharmamatrix.net/v2/wp-content/uploads/2017/03/relazione.pdf). Đáng tiếc, các nghiên cứu này chỉ truyền miệng, đăng tải trên các trang web không chính thống, vẫn chưa được công bố trên bất cứ tập san khoa học quốc tế nào, chưa có nhóm nghiên cứu độc lập nào khác xác minh, do đó rất khó đánh giá giá trị khoa học của nghiên cứu này và kết quả nghiên cứu có thể chỉ thu được từ việc phỏng vấn bệnh nhân. Như vậy, bằng chứng khoa học chứng minh tác dụng sinh học của sản phẩm Vidatox vẫn đang là một câu hỏi. Chính công ty Labiofam cũng đã khuyến cáo Vidatox chỉ được xem như thuốc điều trị hỗ trợ, không phải là liệu pháp điều trị ung thư thực sự [11]. Tại Việt Nam, sản phẩm này được đăng ký dưới dạng thực phẩm chức năng với tên gọi Vidatox Plus. Theo Giấy phép số 5869-2016 /ATTP/Bộ Y tế, Vidatox Plus là chế phẩm sinh học chứa 33% dung dịch cồn chứa nọc bọ cạp xanh Cuba có tên khoa học là Rhopalurus junceus được quảng cáo có công dụng giảm đau, tăng sức đề kháng, ngăn ngừa và hỗ trợ điều trị ung thư. Vidatox Plus được bán tại trang web hay các nhà thuốc với giá gần sáu triệu đồng một chai do Công ty HT Pharma phân phối, thường được sử dụng trong một tháng, có thể sử dụng trên tất cả bệnh nhân ung thư, không kể tới tuổi tác hay loại ung thư.
Các sản phẩm từ nọc độc bọ cạp xanh Cuba gồm có:
(A) Vidatox Plus đăng ký dưới dạng thực phẩm chức năng;
(B) Vidatox 30CH đăng ký dưới dạng thuốc hỗ trợ điều trị ung thư tại Cuba (Sản phẩm màu xanh dành riêng cho người dân Cuba).
Bên cạnh đó, các sản phẩm Vidatox CH30 ở Cuba cũng được xách tay về Việt Nam, bán tràn lan trên internet hay tại các cổng bệnh viện với quảng cáo “chữa khỏi ung thư” có mức giá dao động từ 2-5 triệu đồng mỗi chai. Hiện nay, Vidatox CH30 vẫn chưa được Bộ Y tế cấp phép là thuốc tại Việt Nam, không được lưu hành trong bệnh viện hay bán tại các nhà thuốc. Vì vậy, việc phân biệt thật giả cũng như kiểm soát các nguồn sản phẩm Vidatox CH30 còn nhiều mập mờ, chưa được xác minh rõ ràng. Lợi dụng những kẽ hở này và sự thiếu hiểu biết của người tiêu dùng, đã có nhiều cơ sở kinh doanh thuốc Vidatox giả hoạt động. Tháng 10/2017, cơ quan công an vừa ra quyết định khởi tố bắt giam người cầm đầu một đường dây kinh doanh buôn bán thực phẩm hỗ trợ chữa ung thư giả Vidatox (https://laodong.vn/phap-luat/bat-tam-giam-1-doi-tuong-buon-ban-thuoc-ung-thu-gia-572058.do). Tóm lại, Vidatox CH30 mới chỉ được cục Dược Cuba phê duyệt là thuốc hỗ trợ điều trị, không phải là liệu pháp điều trị bệnh ung thư và hiện tại vẫn chưa được FDA hay EMA (cơ quan bảo chứng uy tín nhất cho dược phẩm) phê duyệt là thuốc. Tại Việt Nam, Vidatox CH30 cũng chưa được phê duyệt là thuốc, chỉ mới được phê duyệt dạng thực phẩm chức năng Vidatox Plus. Vì vậy, bệnh nhân chỉ nên tiếp cận với chế phẩm nọc độc bọ cạp xanh Cuba như một liệu pháp hỗ trợ, không nên đặt hoàn toàn hy vọng chữa khỏi ung thư theo như những quảng cáo không rõ nguồn gốc trên internet và đặc biệt cần thận trọng khi mua các loại sản phẩm này từ các nguồn không chính thống.
Bàn luận chung Có thể nọc độc bọ cạp xanh có hiệu quả điều trị ung thư song tất cả các tài liệu liên quan đến nọc độc bọ cạp xanh Cuba chỉ được truyền miệng mà chưa được chứng minh. Trong khi đó, bệnh nhân ung thư ở một số nước vẫn hy vọng và sử dụng nọc độc bọ cạp xanh Cuba như một cứu cánh duy nhất. Họ có đang thực sự sử dụng nọc độc bọ cạp xanh Cuba? Thành phần có hoạt tính kháng ung thư trong chế phẩm họ sử dụng là gì? Điều đó chưa ai xác minh được cả. Trong tương lai, có thể sẽ có những nghiên cứu bổ sung về thành phần hoạt tính trong nọc độc bọ cạp xanh Cuba có ảnh hưởng đối với tế bào ung thư. Nhưng hiện tại, các nhà khoa học của Cuba cũng chưa thể xác minh các bằng chứng khoa học về việc nọc độc bọ cạp xanh Cuba có thể kháng ung thư để đưa ra một chế phẩm có thành phần và hiệu quả rõ ràng được FDA hay EMA phê duyệt. Vậy chúng ta có nên sử dụng nọc độc bọ cạp xanh Cuba để điều trị ung thư hay không? Rõ ràng, nọc độc bọ cạp xanh Cuba chỉ được công nhận là thuốc hay thực phẩm hỗ trợ điều trị cho bệnh nhân ung thư, hiện tại chưa là thuốc điều trị ung thư thực sự. Chính những lý do trên, những ai quảng cáo Vidatox chữa khỏi ung thư, thuốc điều trị ung thư là không đúng hay họ không biết gì về nọc độc bọ cạp xanh Cuba cả. Vì thế, việc cân nhắc lợi ích được thổi phồng quá mức của Vidatox và những nguy cơ rủi ro về tác dụng phụ, tương tác thuốc với quá trình hóa xạ trị cũng như chi phí bệnh nhân ung thư phải bỏ ra là rất quan trọng trong bối cảnh các loại thuốc xách tay hay thực phẩm chức năng được bán tràn lan như hiện nay. Lời khuyên cho người tiêu dùng
Thận trọng với các sản phẩm được quảng cáo là “thần dược”, “hiệu quả thần kỳ”, “chữa khỏi ung thư”, “không có tác dụng phụ”, “ được khoa học chứng minh” song không cung cấp nghiên cứu chứng minh rõ ràng…
Cần tham khảo ý kiến các cán bộ y tế phụ trách điều trị trực tiếp.
Thận trọng khi mua các sản phẩm thuốc trực tuyến hay từ các nguồn nước ngoài không quen thuộc. Nguồn gốc và xuất xứ các sản phẩm này không ai có thể xác minh được.
Các sản phẩm mua trên internet, không rõ nguồn gốc có thể là sản phẩm giả mạo, bất hợp pháp, thành phần không rõ ràng, không đáp ứng được hiệu quả, đặc biệt có thể ảnh hưởng tới sức khỏe người sử dụng.
Tránh mua các sản phẩm thuốc trôi nổi không rõ nguồn gốc.

Nguyễn Thị Uyên.
Nguồn: https://ruybangtim.com/thuc-hu-ve-viec-noc-bo-cap-xanh-cuba-chua-ung-thu/

Address

Nguyên Khê

Opening Hours

Monday 08:00 - 19:30
Tuesday 08:00 - 19:30
Wednesday 08:00 - 19:30
Thursday 08:00 - 19:30
Friday 08:00 - 19:30
Saturday 08:00 - 19:30
Sunday 08:00 - 19:30

Telephone

+ 84-904866633

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Tuệ Đức Y Đường posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Practice

Send a message to Tuệ Đức Y Đường:

Share

Category