27/06/2025
VÌ SAO TĨNH MẠCH GIÃN.. ?
Trái tim có hai hệ thống truyền dẫn máu đi và về như sau :
1. Động mạch, hệ thống ống truyền dẫn Máu sạch + khí oxy từ Tim ra đến tế bào ( Đông Y gọi là Phát huyết quản), hệ thống động mạch nằm chìm sâu trong cơ bắp nên nhìn không thấy rõ.
2- Tỉnh mạch, hệ thống ống dẫn truyền Máu Dơ ( máu xấu ) + khí CO2 từ tế bào về lại Tim để chuyển đến Thận lọc ( Đông Y gọi là Hồi huyết quản), hệ thống tĩnh mạch nằm bên ngoài da nên nhìn thấy ống máu có màu xanh đen.
Giãn Tĩnh mạch là ống máu dẫn từ hai chân về tim “ bị giãn ra ” và nó ngoằn nghèo uốn khúc có màu đen nổi cao lên, dạng nặng sẽ có nhiều ống máu ngoằn nghèo và có cảm giác nặng chân, sưng hai bắp chân đau nhức rất khó chịu, tác nhân chính gây ra chứng giãn tĩnh mạch chính là “ Muối “.
Theo nghiên cứu và chia sẻ của Y Cốt Liên Khoa thì Thịt + Muối là “ vật chất nặng ” + thịt động vật có nhiều kim loại ( nguyên tố ) trong các loại dinh dưỡng mà chúng ta ăn vào, muối cộng với kim loại có trong Thịt cá tạo ra vạt chất nặng chìm lắng sâu xuống cơ bắp hai chân và tồn đọng dài ngày, vô hình chung làm cho nguồn máu “ bị nặng quá ” nên ống dẫn máu đi ngược về Tim luôn bị dồn nén lại làm cho tĩnh mạch giãn ra rồi ngoằn ngoèo xanh đen và được gắn cho nhãn hiệu “ giãn tĩnh mạch “, hiện tượng này cũng rất giống như sau ngày lễ, nghĩ tết thì đoàn người đi chơi về bị ùn tắc tại các ngõ vô Thành phố, cách trị giãn tĩnh mạch như sau:
1. Đổ mồ hôi xả muối mỗi ngày thông qua tập thể dục hoặc xông hơi, rồi tiếp tục xông hơi hai chân để xả muối, sau khi xông rồi thì lấy khăn ngâm nước xông lau làm mát xa nhẹ cơ bắp hai chân, xông chân và mát xa nhiều lần cho đến khi khỏi.
2. Giảm muối, giảm bớt thịt ( đạm chiếm 25% nhưng chúng ta ăn đạm đến 50-60%, do đạm có nhiều nguyên tố + muối trong món ăn mỗi ngày vô tình làm tăng nhóm kim.loại nặng trong máu rồi dồn xuống cơ bắp hai chân, nếu không giảm muối và giảm thịt vừa đủ thì không chứng giãn tĩnh mạch ngày một năng thêm, các thuốc tây - đông y không có tác dụng đối với muối và kim loại nặng.
3. Ăn tăng rau cũ quả, trái cây, bánh kẹo kem chè, uống nước có đường chanh - cam - bưởi là nhóm “ chất nhẹ ” không có Kim loại, nhón dưỡng chất có chất ngọt này sẽ được máu truyền dẫn năng lượng đi ngược lên đầu, cách ăn này sẽ làm giảm dần muối và kim loai xuống cơ bắp hai sẽ làm giảm áp lực đến các đường ống dẫn máu ( tĩnh mạch ), khi điều chinh chế độ ấn hợp lý thì tủy sẽ tái sinh tế bào mới đến thay thế tế bào bệnh thì dần dần sẽ khỏi chứng giãn tĩnh mạch.
4. Tập thói quen uống nước nhiều lần từ sáng đến 4-5 giờ chiều để mau tiểu xổ lọc muối mỗi ngày, ăn ngọt để đường điều giải muối tại ruột non và xả bỏ muối xuống ruột già, ăn bổ sung “ Vị Chát ” để giúp các ống máu bị giãn co rút lại mà khỏi bệnh.
Muốn khỏi chứng giãn tĩnh mạch cần phải giảm thịt và muối, thay vào ăn nhiều rau cũ quả xào béo, ăn thêm chất béo vào bữa tối để giảm đói mới giảm bớt thịt được, cơ thể chúng ta luôn dịch chuyển và biến đổi, thay cũ đổi mới liên tục nếu điều chỉnh chế độ ăn uống cân bằng thì không bị đau bệnh.
BÀI TẬP PHỤC HỒI CHỨC NĂNG SUY GIÃN TĨNH MẠCH CHI DƯỚI !
- Suy giãn tĩnh mạch chi dưới hay là sự suy giảm chức năng đưa máu trở về tim của hệ thống tĩnh mạch nằm ở vùng chân dẫn đến hiện tượng máu ứ đọng lại sẽ gây ra những biến đổi về huyết động và biến dạng tổ chức mô xung quanh. Bệnh gây nhức mỏi, nặng chân, phù chân, tê dị cảm, kiến bò, chuột rút về ban đêm... có thể dẫn đến các biến chứng khó chữa như chàm da, loét chân không lành, chảy máu, giãn lớn các tĩnh mạch nông, viêm tĩnh mạch nông huyết khối, huyết khối tĩnh mạch sâu...
- Nguyên nhân gây suy giãn tĩnh mạch chi dưới
Trên thế giới, bệnh suy giãn tĩnh mạch chi dưới chiếm một tỉ lệ đáng kể trên số dân, trong đó 70% là nữ. Nữ giới thường có tỷ lệ mắc cao hơn nam giới do ảnh hưởng của nội tiết tố nữ, thai nghén lên thành tĩnh mạch, do phải đứng lâu trong một số ngành nghề đặc biệt như bán hàng, thợ dệt, may, chế biến thủy, hải sản, giáo viên... do khối lượng cơ thấp so với nam giới hoặc dùng giày không thích hợp. Ở Việt Nam, theo một nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ công nhân chế biến thủy sản bị giãn tĩnh mạch chi dưới chiếm trên 70%. Các nhà khoa học dự đoán bệnh sẽ gia tăng do sự phát triển của nền kinh tế và thay đổi nếp sống.
Nguyên nhân của bệnh chưa được xác định rõ ràng. Tuy nhiên, bệnh được xác định liên quan đến một số yếu tố nguy cơ do tổn thương chức năng các van một chiều của hệ tĩnh mạch ngoại biên. Các van này bị tổn thương là do :
Tư thế sinh hoạt hay làm việc phải đứng hay ngồi một chỗ lâu, ít vận động, phải mang vác nặng... tạo điều kiện cho máu bị dồn xuống hai chân, làm tăng áp lực trong các tĩnh mạch ở chân, lâu ngày sẽ gây tổn thương các van tĩnh mạch một chiều. Khi các van này bị suy yếu sẽ giảm khả năng ngăn chặn luồng máu chảy ngược xuống dưới do tác dụng của trọng lực, dẫn đến ứ máu ở hai chân.
Ngoài ra còn có thể do chế độ làm việc. Ngoài việc phải đứng nhiều thì làm việc trong môi trường ẩm thấp cũng là tác nhân gây bệnh trầm trọng hơn, người mang thai nhiều lần, béo phì, chế độ ăn ít chất xơ và vitamin cũng làm cho bệnh trở nên nặng hơn.
Quá trình thoái hóa do tuổi tác (thường gặp ở người già). Tuổi thọ con người ngày càng cao sẽ kéo theo những bệnh của quá trình tích tuổi trong đó có suy tĩnh mạch...
- Biểu hiện bệnh
Ở giai đoạn đầu các triệu chứng ban đầu của bệnh cũng thường mờ nhạt và thoáng qua, người bệnh thường có biểu hiện đau chân, nặng chân, đôi khi người bệnh chỉ có cảm giác mang giày dép chật hơn bình thường; Mỏi chân, phù nhẹ khi đứng lâu ngồi nhiều, Chuột rút vào buổi tối, cảm giác bị châm kim, dị cảm như kiến bò vùng cẳng chân về đêm. Nhiều mạch máu nhỏ li ti (giai đoạn đầu chỉ thấy tĩnh mạch nổi li ti, nhất là ở cổ chân và bàn chân). Những triệu chứng này thường không rõ ràng hoặc mất đi khi nghỉ ngơi, các tĩnh mạch ở chi chưa giãn nhiều, lúc giãn, lúc không nên người bệnh ít chú ý và dễ bỏ qua.
Giai đoạn tiến triển, bệnh sẽ gây phù chân, có thể phù ở mắt cá hay bàn chân. Vùng cẳng chân xuất hiện thay đổi màu sắc da do máu ứ ở tĩnh mạch lâu ngày sẽ có biểu hiện loạn dưỡng. Các tĩnh mạch trương phồng lên gây cảm giác nặng, đau nhức chân, máu thoát ra ngoài mạch gây phù chân. Hiện tượng này không mất đi khi nghỉ ngơi, nặng hơn có thể thấy các búi tĩnh mạch trương phồng nổi rõ trên da một cách thường xuyên, các mảng bầm máu trên da...
Giai đoạn biến chứng, gây viêm tĩnh mạch nông huyết khối (biến chứng của viêm tĩnh mạch nông huyết khối là thuyên tắc tĩnh mạch sâu đoạn gần, đoạn xa và thuyên tắc phổi), chảy máu nặng do giãn vỡ tĩnh mạch, nhiễm khuẩn vết loét của suy tĩnh mạch mạn tính.
$ Tập luyện thường xuyên có thể làm giảm bớt giãn tĩnh mạch và đồng thời làm giảm một số triệu chứng và phòng ngừa biến chứng do giãn tĩnh mạch gây ra. Dưới đây là hướng dẫn các bài tập điều trị phục hồi chức năng suy giãn tĩnh mạch ở chi dưới
$ Các động tác tập cần thực hiện đều đặn, nhẹ nhàng, hết tầm vận động : không vội vàng, không nín thở trong khi tập.
1. Các bài tập ở tư thế nằm
1.1. Gấp và duỗi khớp cổ chân
Bệnh nhân nằm ngửa trên giường hoặc bàn tập, hai chân duỗi thẳng, nâng chân trái lên khỏi mặt giường khoảng 30 đến 50 độ sau đó tập duỗi khớp cổ chân, rồi gấp khớp cổ chân đến mức tối đa từ 10 đến 15 lần. Đưa chân trái về tư thế ban đầu, tập tương tự như vậy đối với chân phải. Mỗi ngày tập 2 đến 3 lần
1.2. Xoay khớp cổ chân
Bệnh nhân nằm ngửa trên giường hoặc bàn tập, hai chân duỗi thẳng, nâng chân trái lên khỏi mặt giường khoảng 30 đến 50 độ sau đó tập xoay khớp cổ chân từ phải qua trái rồi từ trái qua phải 10 đến 15 lần. Đưa chân trái trở về vị trí ban đầu rồi tập tương tự như vậy đối với chân phải. Mỗi ngày tập 2 đến 3 lần.
1.3. Bắt chéo chân
Bệnh nhân nằm ngửa trên giường hoặc bàn tập, hai chân duỗi thẳng, sau đó nâng hai chân lên khỏi mặt giường rồi tập bắt chéo chân trái qua chân phải rồi chân phải qua chân trái luân phiên từ 10 đến 15 lần. sau đó đưa hai chân trở lại vị trí ban đầu trên mặt giường. Mỗi ngày tập từ 2 đến 3 lần.
1.4. Đạp xe đạp
Bệnh nhân nằm ngửa trên giường hoặc bàn tập, nâng hai chân lên khỏi mặt giường, gấp khớp háng và khớp gối sau đó tập như là đạp xe đạp với cả hai chân từ 10 đến 15 lần. Sau đó đưa hai chân trở lại vị trí ban đầu trên mặt giường. Mỗi ngày tập từ 2 đến 3 lần.
2. Các bài tập ở tư thế ngồi trên ghế
2.1. Nâng cẳng chân
Người tập ngồi trên ghế có chiều cao phù hợp để hai bàn chân sát trên sàn nhà, khớp cổ chân, khớp gối, khớp háng vuông góc; lưng thẳng; trọng lượng cơ thể dồn đều lên hai mông và hai chân. Sau đó tập luân phiên nâng bàn chân phải lên khỏi sàn nhà, duỗi thẳng chân phải, rồi đưa chân phải về vị trí ban đầu, tập tương tự với chân trái, mỗi chân từ 10 đến 15 lần, sau đó tập với cả hai chân như vậy. Mỗi ngày tập từ 2 đến 3 lần
2.2. Nhón gót chân
Người tập ngồi trên ghế có chiều cao phù hợp như bài tập ở trên sau đó thực hiện tập nhón gót chân (nâng chân lên cho đến khi khớp cổ chân duỗi thẳng chỉ còn các đầu ngón chân sát sàn nhà rồi đưa trở lại vị trí bắt đầu) luân phiên chân trái rồi chân phải, sau đó là cả hai chân cùng một lúc, tập từ 10 đến 15 lần như vậy. Mỗi ngày tập từ 2 đến 3 lần.
2.3. Gấp và duỗi khớp cổ chân
Người tập ngồi trên ghế như trên sau đó nâng chân trái lên khỏi sàn nhà, duỗi thẳng rồi tập gấp và duỗi khớp cổ chân trái đến mức tối đa (hết tầm vận động) từ 10 đến 15 lần sau đó đưa chân trái về vị trí ban đầu, tập tiếp như vậy đối với chân phải từ 10 đến 15 lần. Mỗi ngày tập từ 2 đến 3 lần
2.4. Xoay khớp cổ chân
Người tập ngồi trên ghế, hai bàn chân đặt trên sàn nhà cách nhau khoảng 20cm, sau đó nâng mũi bàn chân phải lên khỏi sàn nhà chỉ có gót chân sát trên sàn nhà rồi tập xoay khớp cổ chân vào trong, ra ngoài từ 10 đến 15 lần, rồi tập tương tự như vậy đối với chân trái và cả hai chân. Mỗi ngày tập từ 2 đến 3 lần.
Người tập ngồi trên ghế, hai bàn chân đặt trên sàn nhà, sau đó tập bước chân trái lên phía trước đặt gót chân trái trên sàn nhà, rồi nâng chân phải lên để mũi chân phải sát sàn nhà, sau đó chuyển chân trái ra sau đặt mũi chân trái sát sàn nhà, bước chân phải lên trước, gót chân phải sát sàn nhà luân phiên như vậy từ 10 đến 15 lần cho mỗi chân. Mỗi ngày tập từ 2 đến 3 lần
2.6. Gấp, duỗi luân phiên hai chân
Người tập ngồi trên ghế sau đó luân phiên nhấc từng chân lên khỏi sàn nhà, gấp khớp cổ chân, khớp gối, khớp háng rồi duỗi thẳng chân đó ra, đưa trở lại vị trí ban đầu, tiếp tục tập như vậy 10 đến 15 lần, tập tương tự như vậy với chân còn lại. Mỗi ngày tập từ 2 đến 3 lần
Nếu phải ngồi lâu, từ 30 phút đến 1 giờ bạn nên thực hiện các động tác tập 1 lần
3. Các bài tập ở tư thế đứng
3.1. Gấp và duỗi khớp cổ chân
Bệnh nhân đứng, nhấc một chân lên khỏi sàn nhà rồi tập gấp, duỗi khớp cổ chân đến mức tối đa từ 10 đến 15 lần. Đứng trở lại tư thế ban đầu, nhấc chân kia lên khỏi sàn nhà và thực hiện các bài tập như với chân đã làm. Mỗi ngày tập 2 đến 3 lần
3.2. Xoay khớp cổ chân
Bệnh nhân đứng, nhấc một chân lên khỏi sàn nhà, duỗi thẳng chân đó rồi tập xoay khớp cổ chân từ trong ra ngoài rồi từ ngoài vào trong 10 đến 15 lần, sau đó đưa chân về vị trí ban đầu trên sàn nhà và tiếp tục tập như vậy đối với chân còn lại. Mỗi tuần tập từ 2 đến 3 lần
3.3. Nhấc cao chân bước tại chỗ
Bệnh nhân đứng sau đó tập bước tại chỗ 15 đến 20 bước bằng cách tạo các bước chân cao hơn so với bước đi thông thường. Mỗi ngày tập 2 đến 3 lần
3.4. Ngồi xuống và đứng lên nhón gót chân
Bệnh nhân đứng thẳng có thể vịn vào một vật gì đó bên cạnh để đỡ nếu cần, sau đó ngồi xuống giống như ngồi xổm được khoảng một nửa thì lại đứng thẳng lên, rồi nhón gót để đứng trên đầu các ngón chân, rồi sau đó ngồi xuống, làm lại từ 10 đến 15 lần. Mỗi ngày tập từ 2 đến 3 lần
3.5. Bước đi bằng mũi bàn chân
Bệnh nhân đứng thẳng sau đó nâng hai gót chân lên để đứng bằng mũi bàn chân, rồi bước đi khoảng 15 đến 20 bước bằng mũi bàn chân (đi nhón gót). Mỗi ngày tập từ 2 đến 3 lần như vậy
3.6. Bước đi bằng gót chân
Bệnh nhân suy giãn tĩnh mạch chi dưới đứng thẳng sau đó nâng hai mũi bàn chân lên để đứng bằng hai gót chân, rồi bước đi khoảng 15 đến 20 bước bằng gót chân. Mỗi ngày tập từ 2 đến 3 lần như vậy
Nếu phải đứng lâu từ 30 phút đến 1 giờ, bạn nên thực hiện các động tác tập trên 1 lần
4. Các bài tập khác
Ngoài các bài tập kể trên, các hình thức tập luyện như bơi lội, đi bộ, đi bộ nhanh, chạy bộ, tập aerobics, khiêu vũ, cũng rất tốt cho sức khỏe cũng như tốt cho hệ mạch máu.