30/06/2024
✴️✴️ Các thể lâm sàng của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ✴️✴️
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính hiện vẫn đang là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 3 trên thế giới. Bệnh có sự không đồng nhất về sinh lý bệnh, biểu hiện lâm sàng, cũng như đáp ứng điều trị và tiên lượng. Đây là lý do thuật ngữ “kiểu hình bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính” ra đời. Kiểu hình lâm sàng của một bệnh (phenotype) được định nghĩa là một phân nhóm với tác động lớn đến tiên lượng (triệu chứng, đợt cấp, đáp ứng với điều trị, tốc độ tiến triển của bệnh hoặc tử vong).
Các thể lâm sàng bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) gồm:
📍 BPTNMT có viêm phế quản mạn tính chiếm ưu thế: Thể “phù tím” (Blue Bloater): tuổi trẻ hơn, từ 40 đến 50, béo. Triệu chứng nổi bật là ho, khạc đờm mạn tính trong nhiều năm, tím tái, ho nhiều hơn khó thở. Trên phim phổi: hình ảnh vòm hoành bình thường, mạch máu tăng đậm vùng thấp, bóng tim hơi to ra. Khi có suy tim phải thì bóng tim to hơn, các mạch máu phổi tăng đậm hơn và có hình ảnh tăng phân bố mạch máu vùng cao của phổi (hiện tượng tái phân bố mạch máu). Trên CLVT độ phân giải cao (HRCT) thường gặp KPT trung tâm tiểu thùy. Thể này hay có biến chứng tâm phế mạn sớm.
📍 BPTNMT có căng phồng phổi quá mức: thể “hồng thổi” (Pink Puffer) thường gặp ở tuổi từ 50 đến 75, gầy, môi hồng. Triệu chứng nổi bật của thể bệnh này là khó thở, ban đầu khó thở khi gắng sức, sau đó khó thở khi nghỉ ngơi. Gõ vang trống, rì rào phế nang giảm cả hai bên. Phim X-quang phổi: Hai phổi tăng sáng, khe gian sườn giãn rộng và nằm ngang, cơ hoành hạ thấp và dẹt, giảm mạng lưới mạch máu phổi ở ngoại vi, bóng tim dài và nhỏ hình giọt nước. Trên CLVT (HRCT) thường gặp KPT toàn bộ tiểu thùy. Tâm phế mạn là biến chứng gặp ở giai đoạn cuối của bệnh. Điều trị LAMA và/hoặc LABA; SABA/SAMA khi cần.
📍 BPTNMT có đợt cấp thường xuyên: có từ 2 đợt cấp trở lên trong 1 năm, các đợt cấp cách nhau ít nhất 4 tuần sau khi ngưng điều trị đợt cấp trước đó hoặc 6 tuần sau khởi đầu của đợt cấp trước nếu không điều trị. Trong nghiên cứu ECLIPSE, một nghiên cứu quan sát trong vòng 3 năm trên 2138 bệnh nhân BPTNMT vừa đến rất nặng, cho thấy yếu tố tiên lượng quan trọng nhất cho sự xuất hiện của đợt cấp đó chính là tiền sử có đợt cấp thường xuyên, xuất hiện trong 1 năm trước, có thể ở trong bất kỳ giai đoạn nào của bệnh. Do đó “đợt cấp thường xuyên” là một kiểu hình riêng của BPTNMT (hơn 2 đợt cấp từ vừa tới nặng trong 1 năm), tỷ lệ đợt cấp tăng theo độ nặng của BPTNMT. Điều trị BPTNMT nhiều đợt cấp khởi trị với LABA/LAMA có hoặc không kèm ICS. Bệnh nhân có hai đợt kịch phát trung bình/năm nên khởi đầu điều trị có ICS. ICS/LABA/LAMA được nhận thấy khởi trị sớm sẽ giảm tần suất đợt cấp, giảm nguy cơ tái nhập viện, giảm tỷ lệ tử vong so với LABA/LAMA, ICS/LABA.
📍 BPTNMT kèm giãn phế quản: ho khạc nhiều đờm, có hình ảnh giãn phế quản, khí phế thũng phối hợp trên phim chụp CLVT độ phân giải cao, thường gặp ở bệnh nhân thiếu hụt anpha1 antitrypsine. Cần tìm kĩ về căn nguyên vi sinh vật (vi khuẩn thường, vi khuẩn lao, NTM) trong đờm và/hoặc dịch phế quản. Điều trị LABA/LAMA, Macrolide kéo dài và không sử dụng ICS
BPTNMT có tăng bạch cầu ái toan: điều trị ICS trong trường hợp số lượng bạch cầu ái toan > 300 TB/µL.
📍 BPTNMT kèm di chứng lao phổi: thường kèm giãn phế quản, có hội chứng hỗn hợp nhiều hơn, nhiều đợt cấp hơn BPTNMT đơn thuần. Thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài (LABA và/hoặc LAMA) nên là lựa chọn ưu tiên cho COPD kèm di chứng lao phổi. Thận trọng khi dùng LABA/ICS vì nguy cơ viêm phổi và bùng phát bệnh lao
📍 BPTNMT nghề nghiệp: Các yếu tố gây BPTNMT nghề nghiệp bao gồm: khí độc, xi măng, các sản phẩm than đá, bụi silic và các chất kích thích sử dụng trong nông nghiệp…
Nguồn: Trung Tâm Hô Hấp Bệnh Viện Bạch Mai