CLB Thầy thuốc vì cộng đồng Kiên Giang

CLB Thầy thuốc vì cộng đồng Kiên Giang Contact information, map and directions, contact form, opening hours, services, ratings, photos, videos and announcements from CLB Thầy thuốc vì cộng đồng Kiên Giang, Family doctor, Rach Gia.

Hành trình 20 năm của Hội Bảo trợ bnn tỉnh Kiên Giang, trong đó không thể quên người có công sáng lập: chú Bảy Lam và ng...
31/05/2024

Hành trình 20 năm của Hội Bảo trợ bnn tỉnh Kiên Giang, trong đó không thể quên người có công sáng lập: chú Bảy Lam và người đã đồng hành cùng với bệnh nhân nghèo: má hai Thuỷ Cần và cùng nhiều tổ chức và cá nhân khác!

05/02/2024
Phượng tím
30/11/2023

Phượng tím

02/10/2023

Copy từ bs Trương Hữu Khanh

Vài phóng viên y tế nói, hỏi đậu mùa có bùng phát như covid không ?
Không và không
Đậu mùa khỉ gần như không lây qua hô hấp. Sống chung không lây mà lây cho người nào đó trong “thiên hạ”.
Và nó lây gần giống HIV, nếu không lây từ động vật ở châu phi thì là do tiếp xúc cọ xát với mụn nước của người đang mắc bệnh
Đa số người mắc đậu mùa khỉ đều tự hết chứ không suy hô hấp như bệnh covid vì nó đâu có làm viêm phổi. Chỉ có nổi mụn nước ở da nhìn thấy ớn và cũng tự hết
Và nó cũng không thể như HIV vì đa số bệnh nhân sau 21 ngày sẽ hết vi rút trong người và hết lây, còn hiv thì vi rút sẽ tồn tại trong người suốt đời nên lây quài ( nếu không uống thuốc)
MỜ BỐC (Mpox) VẪN LÀ ĐẬU MÙA KHỈ KHÔ - Không quan hệ lung tung thì lo cái gì, con nít càng không phải lo!

25/07/2023

Có nhiều phương pháp để điều trị ung thư vú, việc chỉ định điều trị như thế nào còn phụ thuộc vào tình trạng bệnh của mỗi người bệnh; kích thước khối u và đặc tính sinh học của nó; độ tuổi và tiền sử bệnh của bệnh nhân ..... Ngoài phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, thì điều trị nội tiết được biết đến là một phương pháp điều trị đích trong ung thư vú.

​Điều trị nội tiết là gì?

​Tình trạng thụ thể nội tiết dương tính hay không được xác định qua xét nghiệm nhuộm hóa mô miễn dịch bệnh phẩm khối u, hoặc tổ chức di căn của ung thư vú. Có khoảng 70–80% phụ nữ ung thư vú có thụ thể nội tiết (ER và/hoặc PR) dương tính, những bệnh nhân này có chỉ định điều trị với phương pháp điều trị nội tiết. Theo đó tất cả các thuốc nội tiết đều tác động đến mục tiêu đích là các thụ thể estrogen (ER) của tế bào có thụ thể ER, sẽ làm giảm lượng estrogen hay làm cho estrogen không gắn được với thụ thể nội tiết hoặc làm giảm số lượng thụ thể nội tiết của tế bào u, giúp nâng cao hiệu quả điều trị ung thư vú.

​Các phương pháp điều trị nội tiết

Liệu pháp nội tiết được áp dụng tuỳ theo tình trạng kinh nguyệt, tình trạng thụ thể nội tiết, mục đích điều trị là bổ trợ hay giai đoạn di căn, và nguyện vọng của người bệnh.

​- Cắt buồng trứng: Phương pháp này được khoa học ghi nhận từ thế kỉ 19. Bên cạnh phẫu thuật, xạ trị buồng trứng, gần đây người ta còn sử dụng các dẫn chất GnRH như goserelin, leuprolide, triptorelin để ức chế buồng trứng tiết ra nội tiết tố. Hiện nay, cắt buồng trứng là một phương pháp điều trị kết hợp với các thuốc nội tiết khác trên các bệnh nhân ung thư vú có thụ thể nội tiết dương tính chưa mãn kinh, trẻ tuổi, có nguy cơ tái phát cao hoặc giai đoạn di căn.

​- Các thuốc điều hoà thụ thể estrogen chọn lọc (Selective Estrogen Receptor Modulator – SERM).
Năm 1971, nghiên cứu lâm sàng đầu tiên sử dụng Tamoxifen điều trị ung thư vú giai đoạn muộn trên phụ nữ đã mãn kinh đã được tiến hành. Kể từ đó, thuốc Tamoxifen đã đánh dấu một mốc mới trong điều trị nội tiết bệnh ung thư vú, trở thành tiêu chuẩn vàng cho bệnh nhân ung thư vú đã mãn kinh và chưa mãn kinh, cả cho giai đoạn sớm và giai đoạn muộn.
Trong nhóm thuốc SERM còn có một số thuốc nữa là Raloxifen và Toremifen. Raloxifen được sử dụng để chống loãng xương và giảm nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ mãn kinh có nguy cơ cao. Toremifen được sử dụng trong điều trị ung thư vú, hiện được chấp thuận cho điều trị ung thư vú di căn. Tuy nhiên hai thuốc này ít được sử dụng hơn Tamoxifen.

​- Thuốc đối vận estrogen
Fulvestrant, một thuốc đối vận thụ thể estrogen mà không có tính chất đồng vận với estrogen như Tamoxifen. Thuốc cũng gắn vào ER làm giảm điều vận các thụ thể này, ngăn chặn sự phiên mã qua trung gian thụ thể estrogen, thuốc làm giảm số lượng thụ thể estrogen. Bên cạnh các tác dụng trên ER, thuốc cũng làm giảm điều vận thụ thể progesteron. Các tác dụng phụ thường gặp là đau đầu, đau lưng, cơn bốc hoả. Thuốc phải sử dụng theo đường tiêm bắp nên có các phản ứng tại nơi tiêm.

Các nghiên cứu cho thấy, thuốc có hiệu quả cao đối với các trường hợp ung thư vú đã kháng với các biện pháp điều trị nội tiết khác, không có tác dụng không mong muốn trên nội mạc tử cung như Tamoxifen.

​- Các thuốc ức chế Aromatase
Các thuốc ức chế Aromatase (AI) với tác dụng ức chế hoạt động của men aromatase, loại men giúp chuyển các androgen tiết ra ở tuyến thượng thận thành các estrogen là estrone và estradiol. Thuốc không có tác động tới sản xuất estrogen tại buồng trứng ở phụ nữ chưa mãn kinh. Vì vậy, thuốc chỉ được chỉ định ở phụ nữ mà chức năng buồng trứng đã ngừng hoạt động chế tiết estrogen.

Các thuốc AI hiện tại đang được sử dụng bao gồm Anastrozole, Letrozole và Exemestane. Trong số các thuốc này, hai thuốc đầu thuộc loại không steroid, riêng exemestane thuộc loại steroid. Với cơ chế tác dụng trên men aromatase khác một chút so với các thuốc loại không steroid, exemestane còn được gọi là thuốc bất hoạt aromatase.

​- Thuốc ức chế CDK4/6: đây là phương pháp điều trị tân tiến hiện nay được nghiên cứu và chứng minh hiệu quả trong điều trị ung thư vú di căn và đã bắt đầu được áp dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng tại Bệnh viện K. Các thuốc Ribociclib, Palbociclib, Abemeciclib kết hợp với thuốc nội tiết khác được chỉ định điều trị trên bệnh nhân ung thư vú tái phát, di căn.

​- Thuốc ứng chế mTOR: thuốc everolimus là một thuốc ức chế mTOR được chỉ định trên bệnh nhân ung thư vú tái phát di căn có thụ thể nội tiết dương tính, đã kháng với các thuốc nội tiết khác.

- Ngoài ra có thể cân nhắc sử dụng ức chế PIK3 (nếu có đột biến PI3CA) như alpelisib, hoặc các thuốc SERD đường uống như elacestrant trong một số trường hợp kháng nội tiết, chỉ định cụ thể sẽ do bác sỹ quyết định.

​Điều trị nội tiết bổ trợ

Hai thuốc nội tiết thường được chỉ định trong điều trị bổ trợ là thuốc tamoxifen và thuốc ức chế aromatase (AI). Tùy thuộc vào tình trạng kinh nguyệt, tình trạng bệnh của bệnh nhân và lựa chọn của bệnh nhân để quyết định lựa chọn loại thuốc nào, có hoặc không kết hợp với ức chế buồng trứng.

​- Tamoxifen: được chỉ định trên bệnh nhân có thụ thể nội tiết dương tính chưa mãn kinh hoặc đã mãn kinh với mục đích giảm tỉ lệ tái phát và tử vong do ung thư vú. Thời gian sử dụng thường 5 năm, có thể sử dụng 10 năm ở một số bệnh nhân có nguy cơ tái phát cao. Liều thường được chỉ định là 20mg/ ngày.

Một số tác dụng không mong muốn: cơn nóng bừng mặt, khô rát âm đạo, tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc mạch, tăng nguy cơ ung thư thân tử cung, đặc biệt ở bệnh nhân trên 50 tuổi và dùng tamoxifen đến 10 năm. Tuy nhiên, lợi ích của việc phòng tái phát ung thư vú cao hơn nhiều so với nguy cơ mắc các bệnh lý khác. Vì vậy việc điều trị cần được theo dõi bởi bác sĩ chuyên khoa ung thư để có biện pháp xử trí kịp thời.

Address

Rach Gia

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when CLB Thầy thuốc vì cộng đồng Kiên Giang posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share

Category