Khoa Nội B - Bệnh viện đa khoa Huyện Nga Sơn- Thanh hóa

Khoa Nội B - Bệnh viện đa  khoa Huyện Nga Sơn- Thanh hóa KHÁM, ĐIỀU TRỊ, TƯ VẤN CHO BỆNH NHÂN VỀ CÁC BỆNH NỘI KHOA VÀ TRUYỀN NHIỄM

20/05/2025
Cách phân biệt giữa cảm lạnh và cảm cúmCảm cúm và cảm lạnh đều là các bệnh về đường hô hấp do virus gây ra và hai căn bệ...
12/02/2025

Cách phân biệt giữa cảm lạnh và cảm cúm

Cảm cúm và cảm lạnh đều là các bệnh về đường hô hấp do virus gây ra và hai căn bệnh này rất dễ bị nhầm lẫn do chúng có nhiều biểu hiện tương tự nhau. Tuy nhiên, đây là hai bệnh khác nhau hoàn toàn về nguyên nhân và cách điều trị.
Các triệu chứng cảm lạnh thường nhẹ hơn các triệu chứng của cảm cúm. Người bị cảm lạnh thường bị sổ mũi hoặc nghẹt mũi và không gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Trong khi cảm cúm thì ngược lại, các triệu chứng nặng hơn cảm lạnh và có thể dẫn đến các biến chứng rất nghiêm trọng.
Nguyên nhân gây bệnh
Cảm lạnh là một nhóm các triệu chứng gây ra bởi nhiều loại virus khác nhau, trong đó hay gặp nhất là các chủng Rhinovirus, riêng virus này lại có tới hơn 100 chủng khác khác nhau.
Các loại virus khác cũng gây cảm lạnh có thể kể đến là: Enterovirus, Coronavirus...
Bệnh cảm lạnh thông thường chủ yếu ảnh hưởng tới mũi, họng (viêm họng), và các xoang (viêm xoang). Người bệnh thường sẽ ngạt mũi, chảy nước mũi, sốt nhẹ, ho có đờm, cơ thể mệt mỏi và hơi g*i lạnh.
Các triệu chứng của cảm lạnh thường biểu hiện từ từ, cơ thể mệt mỏi khoảng 3-4 ngày và tự hết trong vòng 7-10 ngày.
Cảm cúm là một bệnh truyền nhiễm cấp tính lây truyền qua đường hô hấp, gây ra bởi virus cúm (thường do hai chủng virus cúm A, B gây ra) và nguy hiểm hơn cảm lạnh
Bệnh cúm thường có tốc độ lây lan khá nhanh và chủ yếu là lây qua đường hô hấp, do người bệnh hít phải không khí có chứa virus cúm.
Trong hầu hết các trường hợp, những người bị cảm cúm sẽ khỏi bệnh trong 5-10 ngày. Tuy nhiên có nhiều chủng virus cúm có thể gây bệnh từ nhẹ, hoặc thành đại dịch, một số chủng có độc tính cao gây nhiều biến chứng nguy hiểm đến tính mạng.

Phân biệt triệu chứng
Triệu chứng Cảm lạnh Cảm cúm
Sốt Hiếm khi hoặc sốt nhẹ Sốt cao (trên 38 độ C)
Đau họng Phổ biến Có thể xảy ra
Ho Nhẹ Ho nhiều, dai dẳng
Đau đầu Hiếm khi Thường xuyên, có thể nặng
Đau nhức cơ thể Nhẹ Nặng, kéo dài
Nghẹt mũi, sổ mũi Phổ biến Ít phổ biến
Mệt mỏi Nhẹ Kiệt sức, mệt mỏi kéo dài
Ớn lạnh Không có Thường xuyên
Biến chứng Hiếm gặp Viêm phổi, viêm phế quản,
viêm cơ tim, viêm não, suy đa cơ quan…

Thời gian bị bệnh
- Cảm lạnh: Thường kéo dài từ 5-10 ngày.
- Cảm cúm: Có thể kéo dài từ 1-2 tuần, với triệu chứng mệt mỏi kéo dài hơn.
Cách phòng ngừa và điều trị
Tiêm phòng cúm hàng năm
Vaccine cúm giúp giảm nguy cơ mắc bệnh cúm và hạn chế biến chứng nặng.
Giữ vệ sinh cá nhân
- Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng và nước ấm.
- Vệ sinh cơ quan hô hấp sạch sẽ (mũi, họng) bằng nước muối.
- Tránh chạm tay vào mắt, mũi, miệng để hạn chế virus xâm nhập.
Tăng cường hệ miễn dịch
- Ăn uống đầy đủ dinh dưỡng, bổ sung vitamin C, D và kẽm.
- Tập thể dục đều đặn để tăng cường sức đề kháng.
- Uống đủ nước và nghỉ ngơi đầy đủ.
Tránh tiếp xúc với người bệnh
- Hạn chế tiếp xúc gần với người bị cảm lạnh hoặc cảm cúm.
- Nếu bị bệnh, hãy che miệng khi ho hoặc hắt hơi, đeo khẩu trang để tránh lây lan.
Giữ môi trường sống sạch sẽ
- Vệ sinh nhà cửa thường xuyên, đặc biệt là các bề mặt tiếp xúc nhiều như tay nắm cửa, bàn làm việc.
- Sử dụng máy lọc không khí để giảm nguy cơ tiếp xúc với virus./.

17/01/2025

'Hạn chế 3 đối tượng dạy thêm, học thêm trong nhà trường hướng tới các trường không có học thêm, dạy thêm' là một trong những chia sẻ của ông Nguyễn Xuân Thành, Vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học (Bộ GD-ĐT), liên quan đến quy định mới về dạy thêm, học thêm.
CÓ học sinh KHÔNG MUỐN VẪN PHẢI HỌC THÊM
Ông Nguyễn Xuân Thành, Vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học (Bộ GD-ĐT)
Về lý do hạn chế đối tượng được dạy thêm trong nhà trường và không được thu tiền của học sinh (HS), ông Thành cho biết: "Dạy thêm, học thêm là do nhu cầu của cả người học lẫn người dạy. Tuy nhiên, qua theo dõi, nắm bắt thực tế chúng tôi thấy rằng, cũng có bộ phận HS có nhu cầu và tự nguyện học thêm nhưng cũng có tình trạng các em dù không muốn nhưng vẫn phải học thêm ở các lớp do chính thầy cô, trường học của mình tổ chức. Một bộ phận HS đang phải đi học thêm chỉ nhằm không lạc lõng với bạn bè, không áy náy với thầy cô hay thậm chí vì bài kiểm tra không bị lạ lẫm.
Bộ GD-ĐT không cấm dạy thêm nhưng tìm nguyên nhân để có phương án quản lý phù hợp, hiệu quả. Các trường phổ thông đang áp dụng chương trình Giáo dục phổ thông 2018, Bộ GD-ĐT đã quy định cụ thể số tiết/môn, đưa ra các yêu cầu cần đạt với từng môn học vừa sức với HS. Bộ GD-ĐT cũng giao cho các trường quyền tự chủ xây dựng kế hoạch giáo dục của nhà trường làm sao đảm bảo hiệu quả và thầy cô giáo chú trọng đổi mới phương pháp dạy học nhằm đạt mục tiêu của chương trình 2018 đó là phát triển năng lực HS. Như vậy, về mặt nguyên tắc, nhà trường, thầy cô thực hiện đúng giờ học theo quy định đã đảm bảo cho HS lượng kiến thức và đáp ứng yêu cầu cần đạt của chương trình.
Điểm mới trong thông tư lần này là Bộ GD-ĐT quy định 3 đối tượng dạy thêm, học thêm trong trường nhưng không được thu tiền của HS, gồm: HS có kết quả học tập môn học ở mức chưa đạt, HS được nhà trường lựa chọn để bồi dưỡng HS giỏi, HS ôn thi tốt nghiệp, ôn thi tuyển sinh. Nguyên nhân là do với chương trình đó, đội ngũ đó nhưng vẫn còn có HS chưa đạt thì nhà trường phải có trách nhiệm dạy thêm hay còn gọi là phụ đạo kiến thức. Thứ hai là dạy thêm cho đối tượng HS được lựa chọn bồi dưỡng HS giỏi. Số này không nhiều và không phải một HS được lựa chọn tất cả các môn học cũng thuộc trách nhiệm của nhà trường. Thứ ba là HS lớp 9, lớp 12 ôn thi chuyển cấp, thi tốt nghiệp được học thêm trong trường học. Tuy nhiên, việc tổ chức ôn thi cho HS cuối cấp phải nằm trong kế hoạch giáo dục của nhà trường, do nhà trường chủ động quyết định, sắp xếp, bố trí và không được thu tiền HS.
Với quy định này, đã có trường băn khoăn có thể vướng, nhưng đây là việc nhà trường hoàn toàn có thể sắp xếp giáo viên (GV) phụ trách các môn học một cách hợp lý để dành cho việc ôn thi, giúp các em củng cố, tổng hợp lại kiến thức. Với đối tượng nào thì việc dạy thêm cũng không quá 2 tiết/tuần. Còn lại, GV cần hướng dẫn HS phương pháp tự học, tự tìm tòi để thẩm thấu những nội dung đã được học trên lớp, tránh chuyện học thêm theo kiểu dồn ép kiến thức, không mang lại hiệu quả.
Hạn chế 3 đối tượng dạy thêm, học thêm trong nhà trường hướng tới các trường không có học thêm, dạy thêm. Thay vào đó, sau giờ học các môn theo chương trình, các em có thời gian, không gian để tham gia các hoạt động vui chơi, tập luyện thể thao, luyện vẽ, âm nhạc… Tôi tin rằng, những người làm nghề, tâm huyết với nghề, với thế hệ trẻ sẽ thấy điều này cần thiết. Dần dần, phụ huynh và cả xã hội cũng cần hướng tới điều đó, HS không phải học thêm quá nhiều gây áp lực, mệt mỏi không cần thiết".
Chúng ta cần khắc phục tình trạng HS hằng ngày tới trường ken đặc lịch học từ sáng đến khuya, không có thời gian nghỉ ngơi, tự học, thẩm thấu, vận dụng kiến thức.

DẠY THÊM CÓ THU TIỀN CỦA HS PHẢI ĐĂNG KÝ KINH DOANH THEO QUY ĐỊNH
Cũng có ý kiến cho rằng do nhu cầu dạy thêm, học thêm là có thật nên việc "siết" dạy thêm trong nhà trường có thể dẫn tới việc phụ huynh, GV phải tràn ra các trung tâm chi phí đắt đỏ, đi lại khó khăn?
Thông tư mới quy định một số nội dung quan trọng đó là: tổ chức, cá nhân tổ chức dạy thêm, học thêm có thu tiền của HS phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật; GV đang dạy học tại các trường không được dạy thêm ngoài nhà trường có thu tiền HS của mình trên lớp… Quy định đó nhằm đảm bảo quyền lợi cho HS, tránh việc GV "kéo" HS trên lớp ra ngoài để dạy thêm.
Nếu không thuộc đối tượng cần học thêm trong nhà trường, em nào có nguyện vọng học thêm ở ngoài là hoàn toàn tự nguyện của bản thân. Khi đó, phụ huynh, HS sẽ tìm hiểu, cân nhắc việc học thêm mang lại giá trị gì, có giúp tiến bộ hơn, hiểu sâu sắc vấn đề hay không. Học để giỏi hơn, phát triển bản thân hơn là nguyện vọng chính đáng, do đó Bộ GD-ĐT không cấm, tuy nhiên tổ chức, cá nhân đã dạy thêm phải đăng ký kinh doanh và phải công khai địa điểm, môn học, thời lượng học, kinh phí... và phải thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về thời giờ làm việc, thời gian làm việc, an toàn, an ninh, phòng chống cháy nổ… Khi đó, nơi nào khiến HS, phụ huynh tin tưởng, đáp ứng được yêu cầu thì HS, phụ huynh sẽ lựa chọn.
Một số GV băn khoăn trường hợp tổ chức dạy thêm 5 - 7 em ở nhà có đăng ký kinh doanh hay không? Thông tư đã quy định cụ thể, tổ chức, cá nhân dạy thêm có thu tiền phải đăng ký kinh doanh.
Quy định là như vậy nhưng để hiệu quả cần phải có cơ chế giám sát và vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý. Thông tư đã quy định kỹ trách nhiệm của từng đơn vị từ UBND tỉnh, sở GD-ĐT đến nhà trường, UBND phường, xã trên địa bàn kiểm tra, giám sát.
Thông tư không cấm GV dạy thêm ngoài nhà trường. Nếu nhà giáo nỗ lực, là GV giỏi, thật sự tâm huyết, đem lại giá trị cho HS chắc chắn sẽ không thiếu HS tìm đến học. Chỉ có trường hợp, GV được trường phân công dạy HS trong trường thì không được dạy thêm có thu tiền với các em đó ở bên ngoài nhằm hạn chế được tình trạng GV kéo HS ra ngoài học thêm, cắt giảm kiến thức trên lớp để dạy thêm. 3 đối tượng dạy thêm, học thêm trong trường nhưng không được thu tiền của HS, gồm: HS có kết quả học tập môn học ở mức chưa đạt, HS được nhà trường lựa chọn để bồi dưỡng HS giỏi, HS ôn thi tốt nghiệp, ôn thi tuyển sinh
CẦN THAY ĐỔI CẢ QUY ĐỊNH LẪN NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI DÂN
Nhiều ý kiến cho rằng, cùng với những quy định hạn chế dạy thêm tràn lan như thông tư mới ban hành thì giải pháp tận gốc vẫn là phải thay đổi về kiểm tra, đánh giá, thi cử. Ông có thể chia sẻ gì về mong muốn này?
Với yêu cầu đề kiểm tra, đánh giá, thi cử hiện nay đều phải bám theo yêu cầu chung của chương trình. Lâu nay, phụ huynh vẫn có tâm lý lo sợ con mình không học sẽ thua thiệt so với con người khác nên cố theo đuổi dù không chắc rằng liệu có hiệu quả hay không. Ngược lại, trong các kỳ thi cho thấy rất nhiều thủ khoa, á khoa đến từ các vùng nông thôn, có điều kiện kinh tế khó khăn, không đi học thêm. Nếu nói nhà trường không tổ chức ôn thi, chất lượng giảm sút hay không tổ chức cho tất cả HS/lớp để ôn thi đại trà mới mang lại điểm số tốt là chưa thỏa đáng.
Chưa kể, khi đã là quy định toàn quốc, các địa phương thực hiện một cách bình đẳng, công bằng và không cần quá lo lắng, đặt nặng vấn đề rồi xếp lớp để HS luyện thi sáng, trưa, chiều, tối. Chúng ta cần khắc phục tình trạng HS hằng ngày tới trường ken đặc lịch học từ sáng đến khuya, không có thời gian nghỉ ngơi, tự học, thẩm thấu, vận dụng kiến thức.
Có 2 vấn đề đó là quy định pháp luật và nhận thức của người dân. Cơ quan quản lý có quy định cụ thể nhưng nhận thức người dân rất quan trọng. Đành rằng, đâu đó vẫn còn có áp lực về thi vượt cấp, tuyển sinh đại học. Ai cũng mong muốn con mình đỗ vào ngôi trường tốt và đó là nhu cầu chính đáng của mỗi người. Tuy nhiên, phụ huynh ngày nay có nhận thức giá trị phát triển con người rõ ràng hơn. Kiến thức là mênh mông, chúng ta cần chú trọng đến phương pháp học thay vì cố học thật nhiều nhưng không đem lại hiệu quả thiết thực. Đã có tình trạng phụ huynh, HS trong giai đoạn nhất định luyện thi, nhồi nhét đến kiệt sức để vượt qua kỳ thi sau đó lại xả hơi. Hoặc thực tế cũng có nhiều em khi trưởng thành ra cuộc sống có đủ kiến thức nhưng thua thiệt do thiếu hụt nhiều kỹ năng.

23/08/2024

Thanh Hóa công bố hết dịch bạch hầu
UBND tỉnh Thanh Hóa tuyên bố hết dịch bạch hầu tại thị trấn Mường Lát sau hai tuần không ghi nhận thêm ca mắc nào, ổ dịch được khoanh vùng.

Quyết định công bố hết dịch bạch hầu tại thị trấn Mường Lát, huyện Mường Lát, được Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa Đỗ Minh Tuấn ký, sáng 23/8. Theo Quyền Giám đốc Sở Y tế Nguyễn Bá Cẩn, kể từ 7/8 là ngày phát hiện hai ca dương tính cuối cùng của ổ dịch tại Khu phố Đoàn Kết, thị trấn Mường Lát, đến nay không ghi nhận thêm ca bệnh nào khác.

UBND tỉnh Thanh Hóa công bố dịch bạch hầu tại thị trấn Mường Lát hôm 11/8, nhằm triển khai các biện pháp chống dịch lây lan rộng trong cộng đồng và tập trung tiêm vaccine nâng cao miễn dịch.

"Theo quy định, sau 14 ngày kể từ khi công bố dịch, địa phương không ghi nhận thêm ca bệnh nào thì đủ điều kiện công bố hết dịch", ông Cẩn cho hay. Ngành y tế vẫn tiếp tục thực hiện các biện pháp giám sát bệnh bạch hầu như theo dõi người khỏi bệnh, người tiếp xúc gần (F1), tiêm vaccine.

Thị trấn Mường Lát nơi xuất hiện ổ dịch bạch hầu vừa qua. Ảnh: Lê Hoàng
Thị trấn Mường Lát, nơi xuất hiện ổ dịch bạch hầu vào đầu tháng 8. Ảnh: Lê Hoàng

Ngày 5/8, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) Thanh Hóa phát hiện ca bạch hầu đầu tiên là thai phụ 17 tuổi. Ba ngày sau, hai người gồm một bé trai 10 tuổi và cụ bà 74 tuổi, là người thân của thai phụ cũng dương tính. Khu phố Đoàn Kết là ổ dịch bạch hầu đầu tiên trong năm tại tỉnh Thanh Hóa, với chuỗi lây nhiễm gồm 3 ca, song chưa xác định nguồn lây cho bệnh nhân đầu tiên. Thanh Hóa cũng là địa phương đầu tiên cả nước công bố dịch bạch hầu, sau nhiều năm.

Cả ba bệnh nhân hiện đã khỏi, về nhà tiếp tục cách ly đủ 21 ngày (tính từ thời gian phát bệnh) và theo dõi thêm hai tháng trước khi mọi sinh hoạt trở lại bình thường. 34 F1 cũng ổn định sức khỏe, không có diễn biến bất thường. Gần 800 người được uống thuốc kháng sinh dự phòng, chủ yếu là người dân và nhân viên tham gia phòng chống dịch. Khoảng 1.000 liều vaccine Td được tiêm cho người dân vùng nguy cơ cao.

Bạch hầu là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, khả năng gây dịch, lây truyền trực tiếp từ người bệnh sang người lành qua đường hô hấp, vật trung gian. Thời gian ủ bệnh khoảng hai tuần trước khi bắt đầu lây nhiễm cho người khác. Triệu chứng bệnh chủ yếu là viêm họng, có lớp màng giả màu trắng do các tế bào bị viêm bám vào trong vòm họng.

Bộ Y tế hồi tháng 7 khuyến cáo bệnh bạch hầu chưa được loại trừ ở nước ta, người dân vẫn có thể mắc bệnh nếu chưa tiêm vaccine phòng bệnh và tiếp xúc với mầm bệnh. Từ đầu năm đến nay cả nước ghi nhận 5 ca bạch hầu, trong đó một trường hợp tử vong là nữ sinh 18 tuổi ở Nghệ An.

09/08/2024

Một bé 10 tuổi và cụ bà 74 tuổi mắc bệnh bạch hầu
(NLĐO) - Kết quả xét nghiệm mới nhất ghi nhận thêm 2 ca mắc bệnh bạch hầu là một em bé 10 tuổi và cụ bà 74 tuổi là người thân của thai phụ được ghi nhận trước đó ở huyện Mường Lát (Thanh Hóa)
Ngày 8-8, tin từ Sở Y tế Thanh Hóa tỉnh Thanh Hóa cho biết vừa có kết quả xét nghiệm thêm 2 ca mắc bạch hầu tại ổ dịch khu phố Đoàn Kết, thị trấn Mường Lát, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa).
Đây là những ca nghi ngờ, tiếp xúc gần với bệnh nhân trước đó đã được cách ly theo dõi. Như vậy, đến thời điểm này, Thanh Hóa đã ghi nhận có 3 ca mắc bệnh bạch hầu. Còn 21 F1 đang tiếp tục cách ly theo dõi tại Bệnh viện Đa khoa huyện Mường Lát và tại nhà.

06/08/2024

(Dân trí) SẢN PHỤ MẮC BỆNH BẠCH HẦU CHƯA RÕ NGUỒN LÂY
Ngày 5/8, tin từ Sở Y tế tỉnh Thanh Hóa, cơ quan chức năng đang khoanh vùng, khử khuẩn và truy vết liên quan đến một trường hợp mắc bệnh bạch hầu, trú tại địa bàn huyện Mường Lát (Thanh Hóa).
Trước đó, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) Thanh Hóa nhận tin bệnh nhân P.L.M. (SN 2007), trú khu phố Đoàn Kết, thị trấn Mường Lát, huyện Mường Lát nằm điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Thanh Hóa nghi mắc bệnh bạch hầu nên lấy mẫu để xét nghiệm.
Kết quả, mẫu bệnh phẩm của bệnh nhân M. có hình ảnh vi khuẩn bạch hầu và kết quả nuôi cấy dương tính.
Theo kết quả điều tra dịch tễ, ngày 1/8, bệnh nhân M. có biểu hiện đau rát họng, ở nhà dùng thuốc không đỡ.
Ngày 4/8 bệnh nhân đến phòng khám tư nhân và được tư vấn đến Bệnh viện Đa khoa huyện Mường Lát với triệu chứng sốt nhẹ, đau rát họng, nuốt vướng, niêm mạc họng đỏ xung huyết, amidan 2 bên sưng nề đỏ...
Bệnh nhân được chẩn đoán nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu và được chuyển lên Khoa bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa cùng ngày.
Trong vòng 14 ngày trước khi khởi phát, bệnh nhân M. không đi ra khỏi địa phương, gia đình không ai mắc bệnh giống bệnh nhân, chưa xác định tiếp xúc với bệnh nhân mắc bệnh bạch hầu.
Đến chiều ngày 5/8, cơ quan chức năng tại Thanh Hóa xác định 4 trường hợp tiếp xúc gần với bệnh nhân có biểu hiện đau họng và 15 trường hợp tiếp xúc gần (F1) với bệnh nhân. Đến thời điểm này chưa ghi nhận bệnh nhân mắc mới.
CDC tỉnh Thanh Hóa nhấn mạnh, ổ dịch tại khu phố Đoàn Kết, thị trấn Mường Lát, diễn biến phức tạp do phát hiện ca bệnh không rõ nguồn lây.

BỆNH WHITMORE1. Bệnh Whitmore ?Bệnh Whitmore là một bệnh nhiễm trùng ở người và động vật do vi khuẩn Burkholderia pseudo...
24/07/2024

BỆNH WHITMORE
1. Bệnh Whitmore ?
Bệnh Whitmore là một bệnh nhiễm trùng ở người và động vật do vi khuẩn Burkholderia pseudomallei gây ra. Vi khuẩn sống trong đất, nước bị nhiễm khuẩn và xâm nhập chủ yếu qua da. Bệnh thường gặp ở Bắc Úc và các nước trong khu vực Đông Nam Á. Tại Việt Nam, ca bệnh đầu tiên được ghi nhận năm 1925 ở một thai phụ 24 tuổi sống tại Thủ Đức. Sau đó, trong khoảng những thập niên từ 1940 đến 1970, rất nhiều trường hợp melioidosis trên lính Pháp và lính Mỹ tham chiến ở Việt Nam đã được ghi nhận. Những nghiên cứu trong thời gian gần đây ở nước ta cho thấy bệnh phân bố ở nhiều tỉnh thành phía Bắc và phía Nam. Bệnh gặp ở nam nhiều hơn nữ, người lớn nhiều hơn trẻ em, mùa mưa nhiều hơn các mùa khác. Tỷ lệ tử vong do bệnh Whitmore khá cao, trên 40%, nhất là các trường hợp sốc nhiễm khuẩn và viêm phổi, sau đó bệnh xuất hiện tại các địa phương trong cả nước và gia tăng trong thời gian gần đây.
Bệnh có biểu hiện lâm sàng rất đa dạng, khó chẩn đoán và tỷ lệ tử vong cao ở những trường hợp viêm phổi nặng, nhiễm trùng huyết và sốc nhiễm trùng. Những người có bệnh nền (tiểu đường, bệnh gan, thận, phổi mạn tính,...) có nguy cơ cao mắc bệnh.
2. Đặc điểm của tác nhân gây bệnh
Vi khuẩn Burkholderia pseudomallei gây bệnh Whitmore là trực khuẩn gram âm, dạng hình roi, kích thước 0,8-1,5 mm, thường bắt màu đậm ở 2 cực (hình kim băng) khi nhuộm xanh methylen. Trong môi trường tự nhiên, vi khuẩn này sống chủ yếu trong đất ẩm, đặc biệt tìm thấy nhiều trong đất sét ở độ sâu 25-45 cm. Vi khuẩn có khả năng tồn tại trong những điều kiện môi trường khác nhau như môi trường nghèo chất dinh dưỡng, môi trường khô hạn hay acid. Tuy nhiên, tác nhân này dễ bị tiêu diệt bởi tia cực tím.
3. Vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể qua đường nào?
Đường xâm nhập vào cơ thể người của vi khuẩn B. pseudomallei thường nhất là qua da bị trầy sướt. Những người thường xuyên tiếp xúc với đất và nước bị nhiễm vi khuẩn nhưng không sử dụng bảo hộ lao động phù hợp là đối tượng nguy cơ cao mắc bệnh lý này. Ngoài ra người mắc bệnh còn do hít phải những hạt bụi có chứa vi khuẩn hay dùng nước uống, ăn những thực phẩm có chứa B. pseudomallei chưa đực xử lý đúng cách. Lây truyền từ người sang người hay truyền từ động vật sang người cực kỳ hiếm gặp.
4. Những người nào dễ mắc bệnh lý này?
Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng tần suất mắc cao nhất ở lứa tuổi từ 40 đến 60. Nam và nữ đều có nguy cơ mắc bệnh nhưng do có điều kiện tiếp xúc với mầm bệnh nhiều hơn nên nam giới thường có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn nữ giới. Bệnh hay xảy ra ở người thường xuyên tiếp xúc với đất và nước như người làm ruộng, công nhân xây dựng, người làm vườn, quân nhân…Khoảng 80% người bệnh có một hoặc nhiều bệnh nền như đái tháo đường; nghiện rượu; bệnh phổi, thận mạn tính; trong đó quan trọng hơn cả là đái tháo đường không được kiểm soát tốt đường huyết. Bệnh cũng có thể gặp ở người trước đó hoàn toàn khỏe mạnh với tỷ lệ ít hơn.
5. Biểu hiện lâm sàng của bệnh Whitmore như thế nào?
1.5. cấp tính.
a) Các biểu hiện hay gặp
- Viêm phổi: sốt cao, sốt rét run, ho đờm mủ, có thể tiến triển thành viêm phổi hoại tử dẫn đến suy hô hấp, sốc nhiễm khuẩn.
- Nhiễm khuẩn huyết: có thể không xác định được đường vào, dễ diễn biến thành sốc nhiễm khuẩn, suy đa phủ tạng gây tử vong.
b) Các biểu hiện ít gặp hơn
- Ổ áp xe trong ổ bụng: áp xe gan, áp xe lách, áp xe cơ thắt lưng chậu.
- Da và mô mềm: tổn thương đa dạng không đặc hiệu như loét da, áp xe dưới da, mụn mủ rải rác, viêm mô tế bào, viêm cân mạc, áp xe cơ.
- Thận tiết niệu: Viêm thận bể thận, viêm tiền liệt tuyến, áp xe tiền liệt tuyến.
- Xương khớp: Viêm tủy xương, viêm khớp nhiễm trùng.
- Thần kinh: viêm màng não mủ, áp xe não, viêm màng não - tủy.
- Tim mạch: viêm màng ngoài tim, phình mạch.
- Áp xe hoặc viêm mủ tuyến mang tai.
- Viêm hạch bạch huyết.
2.5. Thể bán cấp và thể mạn tính
Biểu hiện lâm sàng thường gặp ở phổi và da.
- Tại phổi, tổn thương tạo hang. Bệnh nhân có sốt, ho đờm mủ hoặc ho máu, gầy sút cân, ra mồ hôi trộm về đêm. Bệnh cảnh tương tự lao phổi.
- Tại da, tổn thương là các u hạt, loét da khó lành.
3.5. Biểu hiện ở trẻ em
- Biểu hiện lâm sàng có thể khác với người lớn. Thể bệnh viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết có thể xảy ra nhưng không thường xuyên. Ngược lại, thường gặp các tổn thương da hoặc viêm mủ, áp xe tuyến mang tai.
6. Bệnh này có thể điều trị được không?
Mặc dù bệnh diễn tiến phức tạp nhưng may mắn là bệnh có thể điều trị khỏi bằng kháng sinh đặc hiệu. Giai đoạn điều trị tấn công thường dùng kháng sinh đường tĩnh mạch, liều cao kéo dài liên tục ít nhất 2 tuần. Sau giai đoạn này, bệnh nhân tiếp tục dùng kháng sinh đường uống duy trì khoảng từ 3 đến 6 tháng nữa. Những trường hợp nặng, điều trị duy trì có thể kéo dài đến 1 năm. Ngoài kháng sinh, người bệnh cần phải được điều trị các biến chứng cũng như điều trị tốt bệnh có sẳn như đái tháo đường.
7. Làm cách nào để phòng ngừa được bệnh?
- Bệnh hiện chưa có vắc xin.
- Sử dụng các thiết bị bảo vệ cá nhân như ủng và găng tay không thấm nước để bảo vệ chống tiếp xúc với đất, nước nhiễm vi khuẩn và làm sạch hoàn toàn vết rách da, trầy xước hoặc bỏng.
- Khi cơ thể có những dấu hiệu không khỏe, không nên tự điều trị mà cần đến các cơ sở y tế uy tín để được thăm khám, tư vấn, chẩn đoán và điều trị sớm.

Bệnh bạch hầuTriệu chứng, biến chứng và cách phòng tránhỔ chứa vi khuẩn bạch hầu tồn tại ở cả người bệnh và người lành m...
09/07/2024

Bệnh bạch hầu
Triệu chứng, biến chứng và cách phòng tránh
Ổ chứa vi khuẩn bạch hầu tồn tại ở cả người bệnh và người lành mang vi khuẩn. Khi một người bị nhiễm trùng, nhiễm độc do vi khuẩn bạch hầu có thể dẫn đến tử vong nhanh chóng.
Bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Thể bệnh hay gặp nhất của bệnh bạch hầu là ở đường hô hấp (mũi, họng, thanh quản, khí phế quản), trong đó 70% là bạch hầu họng.
"Ổ chứa vi khuẩn bạch hầu tồn tại ở cả người bệnh và người lành mang vi khuẩn. Khi một người bị nhiễm trùng, nhiễm độc do vi khuẩn bạch hầu có thể dẫn đến tử vong rất nhanh trong khoảng 7 ngày nếu không phát hiện và điều trị
Triệu chứng điển hình.
- Thời gian ủ bệnh bạch hầu thường khoảng 2-3 ngày, sau đó xuất hiện các triệu chứng như đau họng, sốt, ho, khàn tiếng, chán ăn, xuất hiện giả mạc lan nhanh màu trắng ngà...
- "Các triệu chứng của bạch hầu dễ nhầm lẫn với cảm cúm. Tuy nhiên ở người mắc bệnh cảm cúm sau hạ sốt có thể mặt mũi tươi tỉnh, còn người bệnh bạch hầu vừa nhiễm trùng, nhiễm độc nên mặt rất đừ. Do đó khi thấy đau viêm họng nhiều, đừ người, có giả mạc trắng nên nhanh chóng đến cơ sở y tế để thăm khám"
- Đau họng là một trong những triệu chứng điển hình của bệnh bạch hầu
Biến chứng.
- Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, người mắc bệnh bạch hầu có thể gặp nhiều biến chứng nguy hiểm và tử vong.
- Tắc nghẽn đường hô hấp. Vi khuẩn bạch hầu sẽ tạo lớp màng giả màu trắng bám vào trong vòm họng, các lớp màng này lan ra nhân lên có thể gây lấp đường hô hấp, ngạt thở, suy hô hấp cho người bệnh.
- Viêm cơ tim. Độc tố bạch hầu có thể ảnh hưởng đến tim, gây rối loạn nhịp tim, suy tim và có thể tử vong.
- Tổn thương thần kinh dẫn đến tê liệt. Độc tố bạch hầu cũng có thể gây ra các biến chứng tê liệt các dây thần kinh vận nhãn, cơ chi.
- Rối loạn chức năng bàng quang: Một biến chứng khác có thể xảy ra với bệnh nhân bạch hầu là các vấn đề về dây thần kinh kiểm soát bàng quang, khiến bệnh nhân gặp các triệu chứng như đi tiểu thường xuyên, tiểu rắt, mất kiểm soát bàng quang…
- Tê liệt cơ hoành. Với người bệnh bạch hầu, cơ hoành có thể bị tê liệt rất đột ngột, kéo dài hơn nửa giờ hoặc lâu hơn. Nếu cơ hoành tê liệt, ngừng hoạt động, người bệnh có nguy cơ tử vong.
- Suy hô hấp, viêm phổi. Cơ hoành có vai trò quan trọng đối với hệ hô hấp, do đó nếu cơ hoành bị liệt hoàn toàn, triệu chứng khó thở sẽ biểu hiện thường xuyên hơn, thậm chí dẫn đến viêm phổi và suy hô hấp.

Phòng bệnh bạch hầu như thế nào?
- Bệnh bạch hầu được lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn bạch hầu. Bệnh còn có thể lây do tiếp xúc với những đồ vật có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu.
- Cần lấy mẫu xét nghiệm những người đã tiếp xúc với bệnh nhân bạch hầu
- "Hiện nay biện pháp hiệu quả để phòng bệnh bạch hầu là tiêm ngừa vắc xin. Do đó, trong công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe thường kỳ cần cung cấp những thông tin cần thiết về bệnh bạch hầu để người dân chủ động tiêm ngừa vắc xin đầy đủ, phát hiện sớm bệnh, cách ly, phòng bệnh"
- Bên cạnh đó, cần đảm bảo công tác vệ sinh nhà ở, nhà trẻ, lớp học phải thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng. Tại nơi có ổ dịch bạch hầu cũ cần tăng cường giám sát, phát hiện các trường hợp viêm họng giả mạc. Tổ chức tiêm vắc xin bạch hầu đầy đủ theo chương trình tiêm chủng mở rộng.

WHO cảnh báo về bệnh viêm gan siêu vi trên toàn cầu14-05-2024 12:38 | Thông tin dược họcSKĐS - Theo Báo cáo Viêm gan Toà...
04/06/2024

WHO cảnh báo về bệnh viêm gan siêu vi trên toàn cầu
14-05-2024 12:38 | Thông tin dược học
SKĐS - Theo Báo cáo Viêm gan Toàn cầu năm 2024 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), số ca tử vong do viêm gan siêu vi ngày càng gia tăng. Căn bệnh này là nguyên nhân lây nhiễm gây tử vong đứng thứ hai trên toàn cầu, với 1,3 triệu ca tử vong mỗi năm, ngang bằng với bệnh lao…
Vẫn còn quá ít người mắc bệnh viêm gan được chẩn đoán và điều trị
Báo cáo được công bố tại Hội nghị thượng đỉnh về viêm gan thế giới mới đây nhấn mạnh rằng, mặc dù có các công cụ chẩn đoán và điều trị tốt hơn cũng như giá thuốc giảm, nhưng tỷ lệ bao phủ xét nghiệm và điều trị vẫn bị đình trệ. Tuy nhiên, việc đạt được mục tiêu loại trừ viêm gan của WHO vào năm 2030 vẫn có thể đạt được nếu hành động nhanh chóng được thực hiện ngay bây giờ.
Dữ liệu mới từ 187 quốc gia cho thấy, ước tính số ca tử vong do viêm gan siêu vi tăng từ 1,1 triệu người vào năm 2019 lên 1,3 triệu người vào năm 2022. Trong số này, 83% là viêm gan B và 17% là viêm gan C. Mỗi ngày có 3.500 người chết trên toàn cầu do nhiễm viêm gan B và C.
TS. Tedros Adhanom Ghebreyesus, Tổng Giám đốc WHO cho biết: “Báo cáo đã cho thấy một bức tranh đáng lo ngại. Mặc dù có tiến bộ trên toàn cầu trong việc ngăn ngừa nhiễm trùng viêm gan, nhưng số ca tử vong vẫn gia tăng, do có quá ít người mắc bệnh viêm gan được chẩn đoán và điều trị”.
Ước tính cập nhật của WHO cũng chỉ ra rằng, 254 triệu người mắc bệnh viêm gan B và 50 triệu người mắc bệnh viêm gan C vào năm 2022. Một nửa gánh nặng nhiễm viêm gan B và C mạn tính là ở những người từ 30–54 tuổi, với 12% ở trẻ em dưới 18 tuổi. Nam giới chiếm 58% trong tất cả các trường hợp.
Ước tính tỷ lệ mắc mới cho thấy giảm nhẹ so với năm 2019, nhưng tỷ lệ mắc bệnh viêm gan siêu vi nói chung vẫn ở mức cao. Các biện pháp phòng ngừa như tiêm chủng và tiêm an toàn, cùng với việc mở rộng điều trị viêm gan, đã góp phần làm giảm tỷ lệ mắc bệnh.

Số ca tử vong do viêm gan siêu vi ngày càng gia tăng.
Tiến bộ toàn cầu và những khoảng trống trong chẩn đoán và điều trị
Trên tất cả các khu vực, chỉ có 13% số người nhiễm viêm gan B mạn tính được chẩn đoán và khoảng 3% (7 triệu) đã được điều trị bằng thuốc kháng virus vào cuối năm 2022. Về viêm gan C, 36% đã được chẩn đoán và 20% (12,5) triệu đã được điều trị khỏi bệnh.
Những kết quả này thấp hơn nhiều so với mục tiêu toàn cầu là điều trị 80% số người mắc bệnh viêm gan B và viêm gan C mạn tính vào năm 2030. Tuy nhiên, con số này cho thấy sự cải thiện nhẹ nhưng nhất quán trong phạm vi chẩn đoán và điều trị, kể từ ước tính được báo cáo lần cuối vào năm 2019. Cụ thể: Chẩn đoán viêm gan B tăng từ 10% lên 13% và điều trị từ 2% lên 3%. Chẩn đoán viêm gan C tăng từ 21% lên 36% và điều trị tăng từ 13% lên 20%.
Gánh nặng của bệnh viêm gan siêu vi thay đổi theo từng vùng. Khu vực Châu Phi của WHO chịu 63% số ca nhiễm viêm gan B mới, tuy nhiên bất chấp gánh nặng này, chỉ có 18% trẻ sơ sinh trong khu vực được tiêm vaccine ngừa viêm gan B khi sinh. Ở khu vực Tây Thái Bình Dương, nơi chiếm 47% số ca tử vong do viêm gan B, tỷ lệ điều trị ở mức 23%, trong số những người được chẩn đoán, quá thấp để giảm tỷ lệ tử vong.
Bangladesh, Trung Quốc, Ethiopia, Ấn Độ, Indonesia, Nigeria, Pakistan, Philippines, Liên bang Nga và Việt Nam cùng gánh chịu gần 2/3 gánh nặng toàn cầu về bệnh viêm gan B và C. Để đạt được khả năng tiếp cận phổ cập tới phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị ở 10 quốc gia này vào năm 2025, cần nỗ lực tăng cường ở khu vực Châu Phi, để đưa phản ứng toàn cầu trở lại đúng hướng nhằm đáp ứng các Mục tiêu Phát triển Bền vững.
Sự khác biệt về giá cả và cung cấp dịch vụ
Mặc dù có sẵn các loại thuốc điều trị viêm gan siêu vi có giá cả phải chăng nhưng nhiều quốc gia không thể mua được thuốc với mức giá thấp hơn. Sự chênh lệch về giá vẫn tồn tại cả trong và ngoài các khu vực của WHO, với nhiều quốc gia trả tiền cao hơn mức chuẩn toàn cầu, ngay cả đối với thuốc không có bằng sáng chế hoặc khi được đưa vào các thỏa thuận cấp phép tự nguyện.
Ví dụ, mặc dù tenofovir để điều trị bệnh viêm gan B không được cấp bằng sáng chế và có giá chuẩn toàn cầu là 2,4 USD mỗi tháng, nhưng chỉ có 7 trong số 26 quốc gia báo cáo trả giá bằng hoặc thấp hơn giá chuẩn.
Tương tự, một liệu trình 12 tuần dùng thuốc sofosbuvir/daclatasvir thuộc nhóm pangenotypic để điều trị viêm gan C hiện có ở mức giá chuẩn toàn cầu là 60 USD, tuy nhiên chỉ có 4/24 quốc gia báo cáo trả mức giá bằng hoặc thấp hơn mức giá chuẩn.
Việc cung cấp dịch vụ vẫn tập trung và theo chiều dọc, và nhiều nhóm dân cư bị ảnh hưởng vẫn phải trả chi phí tự chi trả cho các dịch vụ viêm gan siêu vi. Chỉ 60% các quốc gia báo cáo cung cấp dịch vụ xét nghiệm và điều trị viêm gan siêu vi miễn phí, toàn bộ hoặc một phần, trong khu vực công.
Khuyến nghị để đẩy nhanh quá trình loại bỏ bệnh viêm gan
Báo cáo của WHO cũng phác thảo một loạt hành động nhằm thúc đẩy phương pháp tiếp cận y tế công cộng đối với bệnh viêm gan siêu vi, được thiết kế nhằm đẩy nhanh tiến độ hướng tới chấm dứt dịch bệnh vào năm 2030. Chúng bao gồm:
• Mở rộng khả năng tiếp cận xét nghiệm và chẩn đoán;
• Chuyển từ chính sách sang thực thi đối xử công bằng;
• Tăng cường các nỗ lực phòng ngừa chăm sóc ban đầu;
• Đơn giản hóa việc cung cấp dịch vụ, tối ưu hóa quy định và cung cấp sản phẩm;
• Phát triển các trường hợp đầu tư ở các nước ưu tiên;
• Thu hút sự tham gia của các cộng đồng bị ảnh hưởng và xã hội dân sự, thúc đẩy nghiên cứu để cải thiện chẩn đoán và các phương pháp chữa trị tiềm năng cho bệnh viêm gan B...

Address

Thị Trấn Nga Sơn/huện Nga Sơn
Thanh Hóa

Telephone

+84918916299

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Khoa Nội B - Bệnh viện đa khoa Huyện Nga Sơn- Thanh hóa posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Share