17/10/2025
🫧🫧Ca lâm sàng 10.
Bệnh nhân nam, 64 tuổi, vào viện vì loét đau ở mặt sau ngoài 1/3 dưới cẳng chân trái.
2 năm nay, ở vùng da đó thường xuyên ngứa và có vài tổn thương tăng sắc tố.
5 tháng trước khi nhập viện, 1 trong các tổn thương này đã tiến triển thành 1 vết loét rất đau, kích thước lớn và sâu, mặc dù đã điều trị kháng sinh và chăm sóc vết thương tại chỗ. Gần đây, bệnh nhân nhận thấy tình trạng viêm đỏ và phù nề quanh ổ loét nhiều hơn, tiết mủ có mùi hôi và đau nhiều hơn.
🫧Tiền sử:
Tăng huyết áp kiểm soát kém, đái tháo đường type 2 được chẩn đoán 3 năm kiểm soát kém với HbA1c 11%, rối loạn lipid máu. Trong 3 năm qua, huyết áp tâm thu dao động từ 160-230 mmHg, huyết áp tâm trương dao động 95-120 mmHg.
Thuốc đang dùng Atorvastatin 80mg, Hydrochlorothiazide 25mg, Losartan 25mg, Metformin 500mg. Bệnh nhân cho biết bản thân tuân thủ kém.
Không tiền căn dị ứng, uống rượu ít, hút thuốc lá 10 gói/năm, không sử dụng ma túy.
Làm việc tại 1 tiệm giặt ủi và phải thường xuyên đứng hơn 8h/ngày.
🫧Tiền căn gia đình: ba mẹ đều bị tăng huyết áp, đái tháo đường và bệnh mạch vành.
Chẩn đoán phân biệt các trường hợp loét mạn tính (> 6tháng) khá rộng. Đa phần các trường hợp do nguyên nhân mạch máu (tĩnh mạch thường gặp hơn động mạch), các nguyên nhân khác cần nghĩ đến là: bệnh lý thần kinh, chuyển hóa, huyết học, chấn thương, ung thư, nhiễm trùng...
🫧Cận lâm sàng:
Siêu âm doppler mạch máu chi dưới chưa ghi nhận suy van tĩnh mạch hay huyết khối.
Nồng độ hemoglobin là 11,7 g/dl, số lượng bạch cầu là 8610/µl (77% bạch cầu trung tính, 13% lympho bào, 7% mono bào và 1,3% eosinophil), và số lượng tiểu cầu là 285.000/µl.
Kết quả xét nghiệm sinh hóa máu bình thường, ngoại trừ glucose máu ở mức 163 mg/dl (9,0 mmol/lít).
CRP (C-reactive protein) là 42,7 mg/dl (giá trị tham chiếu 2 tuần, các chỉ số viêm tăng. Bạch cầu bình thường cũng thường gặp trong viêm xương. Không có tình trạng phá hủy xương trên xquang nhưng không đủ để loại trừ, cần chụp MRI.
Bệnh nhân nhập viện và được điều trị với Cefepim và Vancomycin.
🫧 MRI cho thấy khiếm khuyết ở mô mềm nhưng không có hình ảnh viêm tủy xương. Vết loét được chăm sóc thay băng hàng ngày và cắt lọc.
Nguyên nhân nền gây ra vết loét vẫn chưa rõ ràng, bệnh nhân được kiểm tra động mạch ngoại biên bằng MRI cẳng chân T có tiêm thuốc cản quang cho thấy tình trạng thông suốt ở các động mạch lớn bao gồm: động mạch khoeo, chày trước, mác, chày sau, mu chân và gan chân. Hệ tĩnh mạch cũng thông suốt, không có bằng chứng huyết khối tĩnh mạch sâu. Vì MRI có cản quang cho kết quả bình thường nên loại trừ nguyên nhân bệnh lý động mạch ngoại biên, chẩn đoán phân biệt còn lại gồm ung thư, các bệnh viêm da như Pyoderma gangrenosum, Viêm mạch máu nhỏ trong các bệnh ly tự miễn, các bệnh lý gây thiếu máu cục bộ mạch máu nhỏ (do thuyên tắc, huyết khối, tắc nghẽn, và loét Martorell do tình trạng xơ cứng tiểu động mạch thiếu máu do tăng huyết áp).
Viêm da mủ hoại thư Pyoderma Gangrenosum là những vết loét lớn, sâu cũng giống như bệnh nhân này, nhưng thường gặp trong các bệnh lý viêm hệ thống như viêm loét đại tràng, bệnh crohn, viêm khớp. Vị trí ở mặt sau ngoài của vết loét phù hợp với loét Martorell. Ung thư da có thể gây loét nhưng sẽ tiến triển chậm (vài năm), đặc trưng tổn thương không hoại tử với bờ nhô cao.
🫧Bệnh nhân được thực hiện sinh thiết punch và sinh thiết nêm sâu để chẩn đóan.
Kết quả mô bệnh học: ổ loét hoại tử, xơ cứng tiểu động mạch dưới da, viêm mủ lan tỏa, các đặc điểm của bệnh mạch máu dạng mạng lưới (livedoid vasculopathy), viêm mạn tính lớp trung bì, xơ hóa, hoại tử mô mỡ dưới da và thay đổi dạng màng giả trong mô mỡ hoại tử (lipomembranous)
🫧Cấy vi sinh vết loét cho kết quả Serratia marcescen and Enterococcus faecalis, nhạy với nhiều loại kháng sinh.
🫧🫧Chẩn đoán: Loét Martorell.
Phác đồ kháng sinh được thu hẹp lại bao gồm Ciprofloxacin và Doxycyclin trong 4 tuần. Bệnh nhân được phẫu thuật cắt lọc mô hoại tử và tái tạo vết thương bằng ghép da.
Huyết áp được kiểm soát tích cực với:
- Losartan 100 mg/ngày,
- Amlodipine 10 mg/ngày,
- Spironolactone 25 mg/ngày,
- Hydrochlorothiazide 25 mg/ngày.
Sau xuất viện bênh nhân bị tụt huyết áp và điều trị lại với Losartan kết hợp Hydrochlorothiazid), sau 4 tháng tổn thương lành hoàn toàn, HbA1c là 7,7%.
Việc dùng kháng sinh 4 tuần dựa trên: bệnh đái tháo đường không kiểm soát tốt, vết loét to, tiền sử điều trị thất bại với nhiều kháng sinh trước đây, vết loét lan rộng đến các mô sâu.
Vấn đề huyết áp được kiểm soát tốt sau khi dùng lại phác đồ cũ cho thấy tăng huyết áp do bệnh nhân không tuân thủ điều trị, không phải do kháng trị. Nếu huyết áp vẫn tăng cao sau khi đã phối hợp 4 thuốc sẽ được chẩn đoán là tăng huyết áp kháng trị và cần làm thêm xét nghiệm để tìm nguyên nhân tăng huyết áp thứ phát.
🫧🫧Bàn luận:
Loét Martorell là tình trạng loét do thiếu máu cục bộ ở các tiểu động mạch dưới da, bắt nguồn từ tăng huyết áp nặng và mạn tính.
Mặc dù điều trị viêm mô tế bào là bước quan trọng đầu tiên, nhưng việc kiểm soát huyết áp là yếu tố then chốt để ngăn ngừa loét tái phát.
Loét Martorell xảy ra do hoại tử thiếu máu cục bộ, tương tự như bệnh động mạch ngoại biên. Điểm khác biệt quan trọng là trong PAD thiếu máu cục bộ xuất hiện do tắc nghẽn các động mạch lớn và trung bình, còn trong loét Martorell, thiếu máu cục bộ do tắc nghẽn vi mạch, tức tổn thương các tiểu động mạch.
Tăng huyết áp mạn tính không kiểm soát gây tăng sức cản trong lòng mạch, phì đại lớp cơ trong thành tiểu động mạch và dày lớp nội mạc, gây xơ cứng tiểu động mạch và hẹp lòng mạch --> giảm lượng máu ở mao mạch da --> thiếu máu cục bộ --> hoại tử mô --> tạo vết loét.
Loét xảy ra ở 5-15% các vết loét chân, và gặp ở bệnh nhân tăng huyết áp kiểm soát kém thời gian dài. Thường xuất hiện ở nữ, 50 - 75 tuổi, huyết áp tâm thu dao động 170-290mmHg, huyết áp tâm trương dao động 85-115mmHg.
Vết loét rất đau, vị trí ở phía sau gân Achilles hay mặt ngoài 1/3 dưới cẳng chân, tiến triển trong vài tuần đến vài tháng. Bắt đầu là mụn nước đỏ đau, sau đó chuyển sang màu tím đỏ, cuối cùng vỡ ra thành vết loét có nền hoại tử, bờ tím đỏ, phản ứng viêm mạnh, có thể xuất hiện 2 bên và đối xứng, và có thể kèm vài vết loét vệ tinh 2 bên.
Điểm khác biệt với loét do tĩnh mạch hay bệnh động mạch lớn là loét Martorell gây đau nhiều đến mất ngủ, không giảm khi nghỉ ngơi hay kê cao chân.
Chẩn đoán xác định dựa vào tiền căn tăng huyết áp mãn tính kiểm soát kém và hình ảnh mô học đặc trưng như xơ cứng tiểu động mạch dưới da, vôi hóa thành tiểu động mạch, thoái hóa hyalin dưới nội mạc, giảm mật độ tế bào cơ trơn.
Nguồn:NEJM.