
03/09/2025
🌊🌊Ca lâm sàng 2:
❤️Điện tim ngày nhập viện: Block nhĩ thất độ II Mobitz I, có sóng Q ở các chuyển đạo thành dưới.
N1 sau nhập viện: Block nhĩ thất độ I mức độ nặng với thời gian PR 320ms.
N2 sau nhập viện: Block nhĩ thất độ 3.
🌻🌻Các chẩn đoán phân biệt cần nghĩ đến!
1. Hậu Covid 19:
Với tiền căn nhiễm Covid 19 gần đây có thể nghĩ đến các biến chứng hậu Covid như viêm cơ tim hay hội chứng viêm đa hệ thống (Multisystem inflammatory syndrome) - 1 bệnh lý có triệu chứng tương tự như Kawasaki. Hội chứng này xảy ra sau 2 đến 6 tuần nhiễm Covid, thường gặp ở bệnh nhân không tiêm ngừa vaccin. Bệnh nhân mắc hội chứng này có các chỉ số viêm tăng, như tốc độ máu lắng, CRP, tuy nhiên ở bệnh nhân này có giá trị bình thường. Viêm màng ngoài tim do Covid 19 cũng gây tình trạng hồi hộp đánh trống ngực, đau ngực, nhưng rối loạn nhịp thường gặp là nhịp nhanh xoang, không phải block nhĩ thất.
2. Hội chứng vành cấp:
Đau ngực ở bệnh nhân này không điển hình cho hội chứng vành cấp (bệnh nhân đau ngực kiểu màng phổi và thay đổi theo tư thế). Điện tim không thấy thay đổi ST-T, men tim bình thường, bệnh nhân trẻ tuổi, không có tiền căn bệnh lý tim mạch --> ít nghĩ đến hội chứng vành cấp.
3. Thuyên tắc phổi:
Cần nghĩ đến thuyên tắc phổi vì có khó thở khi gắng sức, đau ngực kiểu màng phổi và tăng D-dimer, và hậu nhiễm Covid 19 cũng làm tăng các biến cố về huyết khối. Cần khai thác kỹ hơn liệu bệnh nhân có dùng thuốc tránh thai đường uống hay không. Vì kết quả CT động mạch phổi bình thường nên loại trừ chẩn đoán này.
4.Bệnh cơ tim:
Uống HCQ để điều trị và dự phòng Covid 19 có thể gây ngộ độc cơ tim, do đó cần khai thác kỹ tiền sử dùng thuốc điều trị Covid 19. Bệnh nhân được chụp CT mạch vành thấy các buồng tim không lớn, nên chẩn đóan bệnh cơ tim mạn ít nghĩ đến.
🌻🌻Ở một bệnh nhân trẻ có block nhĩ thất, cần nghĩ đến một nguyên nhân khác là bệnh Lyme, vì các rối loạn dẫn truyền có thể nhanh chóng tiến triển đến block nhĩ thất hoàn toàn, sau vài giờ dùng kháng sinh đặc hiệu, block sẽ cải thiện rất nhanh.
💢💢Bệnh Lyme là bệnh nhiễm trùng do xoắn khuẩn Borrelia burgdorferi gây ra, lây truyền thông qua vết ve cắn. Bệnh nhân này không nhớ mình đã bị ve cắn hay không, do thường xuyên tham gia các hoạt động ngoài trời nên nguy cơ tiếp xúc với ve nhiễm bệnh rất cao.
Bệnh Lyme được chia thành 3 giai đoạn:
🫳Giai đoạn khu trú sớm:
Vài ngày đến vài tuần sau cắn, với đặc trưng là hình ảnh ban đỏ dạng bia bắn (dạng mắt bò), di chuyển trên da. Khi thấy ban này có thể chẩn đoán ngay bệnh Lyme, không cần chờ xét nghiệm.
🫳Giai đoạn lan tỏa sớm:
Vài tuần đến vài tháng sau cắn, với các triệu chứng toàn thân như sốt, đau khớp, đau cơ. Các triệu chứng tim mạch và thần kinh cũng xuất hiện. Viêm tim do Lyme gây block nhĩ thất hoặc viêm cơ tim màng ngoài tim --> giải thích các triệu chứng hồi hộp, khó thở, đau ngực của người bệnh.
Các biểu hiện thần kinh như đau liên quan đến rễ thần kinh, viêm màng não Lympho, liệt dây VII --> giải thích các triệu chứng đau và căng cứng vùng cổ, cánh tay.
Tăng men gan cũng gặp trong bệnh Lyme.
Bệnh nhân này không sốt có thể do đã từng điều trị với corticoid nên triệu chứng sốt bị che lấp.
🫳Giai đoạn lan toả muộn: sau nhiều tháng nhiều năm, với viêm khớp mạn tính, đặc biệt là các khớp lớn.
Xét nghiệm chẩn đoán huyết thanh học tìm kháng thể kháng B.burgdorferi cho kết quả dương tính.
🌻🌻Điều trị:
Theo khuyến cáo IDSA, bệnh Lyme nhẹ - trung bình có thể dùng kháng sinh đường uống: doxycycline, amoxicillin, cefuroxim, azithromycin.
Bệnh Lyme nặng hoặc có yếu tố nguy cơ biến chứng nặng (block nhĩ thất độ cao, suy tim, rối loạn nhịp có triệu chứng) cần điều trị nội trú với Ceftriaxon.
Thời gian điều trị: 14-21 ngày.
Nguồn: NEJM.