Khoa Gây Mê - Hồi Sức . Bệnh Viện Sản Nhi Nghệ An

  • Home
  • Vietnam
  • Vinh
  • Khoa Gây Mê - Hồi Sức . Bệnh Viện Sản Nhi Nghệ An

Khoa Gây Mê - Hồi Sức . Bệnh Viện Sản Nhi Nghệ An ꧁༻ GÂY MÊ VỮNG VÀNG – AN TOÀN PHẪU THUẬT – GỬI TRỌN NIỀM TIN ༺꧂

Bài viết hơi dài nhưng rất hữu ích cho thực hành lâm sàng. Khi Gây Mê Hồi Sức Sản Khoa khó lường trước và rất nhiều diễn...
12/04/2025

Bài viết hơi dài nhưng rất hữu ích cho thực hành lâm sàng. Khi Gây Mê Hồi Sức Sản Khoa khó lường trước và rất nhiều diễn biến bất ngờ trên mọi bệnh nhân, và mọi thời điểm.

Hội chứng bệnh não sau có hồi phục (PRES) Posterior Reversible Encephalopathy Syndrome trong Sản khoa
Tình huống lâm sàng (Nguồn: Singhal AB. Posterior Reversible Encephalopathy Syndrome and Reversible Cerebral Vasoconstriction Syndrome as Syndromes of Cerebrovascular Dysregulation)
Bệnh nhân nữ, 36 tuổi bị đau đầu nhiều liên quan đến tăng huyết áp mới khởi phát 10 ngày sau khi sinh song thai bằng phương pháp mổ lấy thai. Phim MRI và CT não ban đầu thì bình thường. Xuất hiện đau đầu kéo dài dù đã dùng thuốc hạ huyết áp; một cơn động kinh và một giai đoạn mất ngôn ngữ cùng liệt nửa người. Chụp MRI lại vào ngày thứ 18 sau sinh (HÌNH A) cho thấy các vùng tăng tín hiệu ở cả hai thùy chẩm phù hợp với phù nề kiểu mạch máu. Các đặc điểm hình ảnh lâm sàng này phù hợp với hội chứng bệnh não phía sau có hồi phục (PRES). Phim MRA của (HÌNH B) cho thấy hẹp đa ổ đoạn gần động mạch não trước, giữa và sau. Phát hiện này phù hợp với bệnh lý mạch máu não sau sinh (một bệnh lý được bao gồm trong thuật ngữ chung là hội chứng co thắt mạch máu não có thể đảo ngược [RCVS]). MRI thu được vào ngày 19 sau sinh cho thấy các tổn thương tăng tín hiệu trên phim FLAIR (HÌNH C) và phim diffusion (HÌNH D) phù hợp với hình ảnh nhồi máu não. Bất chấp nhiều nỗ lực để làm giãn động mạch não bằng cách tiêm thuốc dãn mạch vào trong động mạch não, bệnh nhân vẫn tiến triển nặng thêm. MRA tiếp theo (HÌNH E) cho thấy tình trạng hẹp động mạch não đa ổ ngày càng nặng hơn, và phim FLAIR cho thấy nhồi máu não hai bên kèm theo phù và xuất huyết (HÌNH F). Cuối cùng bệnh nhân đã tử vong. Khi khám nghiệm tử thi, các động mạch não không có dấu hiệu viêm.
Nhận xét: Trường hợp này là một ví dụ điển hình của sản giật sau sinh liên quan đến bệnh lý mạch máu sau sinh (tức là PRES và RCVS), là những tình trạng bệnh lý có liên quan lẫn nhau và là nguyên nhân thường gặp của nhồi máu não và xuất huyết não sau sinh. Những hội chứng này rất khó để tiên đoán hoặc ngăn ngừa. Chưa có phương pháp điều trị nào được chứng minh có hiệu quả, mặc dù việc kiểm soát huyết áp, bổ sung magiê và điều trị bằng thuốc chẹn kênh canxi được coi là quan trọng. Mặc dù 90% bệnh nhân sẽ tự giới hạn và hồi phục trong vài ngày đến vài tuần, một số bệnh nhân (như trong trường hợp này) sẽ tiến triển, thường dẫn đến tử vong. Trường hợp này làm nổi bật nguy cơ tiềm ẩn đối với tổn thương do co mạch và tái tưới máu khi chụp mạch xâm lấn và liệu pháp giãn mạch nội mạch. Hình ảnh. Hình ảnh học của tình huống
Tổng quan y văn về PRES
Hội chứng được mô tả lần đầu tiên vào năm 1996 bởi Hinchey và cộng sự, báo cáo 15 bệnh nhân có các triệu chứng thần kinh bao gồm đau đầu, co giật, rối loạn thị giác và các triệu chứng thần kinh khu trú khác. Hình ảnh chụp cắt lớp (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) cho thấy phù não chủ yếu ở phía sau não. PRES là một thực thể lâm sàng - x quang (Clinicoradiological)
- Đặc điểm lâm sàng: nhức đầu, rối loạn tâm thần, co giật và rối loạn thị giác
- Đặc điểm X quang: kiểu bất thường chất trắng hai bên ở vùng sau của cả hai bán cầu não đặc biệt phản ảnh phù mạch máu(vasogenic).
- Cả hai đặc điểm lâm sàng và hình ảnh thường có thể đảo ngược Trung bình, khoảng 40% tất cả bệnh nhân được chẩn đoán mắc PRES cần được theo dõi và điều trị hồi sức tích cực do các biến chứng nặng như trạng thái động kinh, thiếu máu não, xuất huyết nội sọ hoặc tăng áp lực nội sọ. Không có nghiên cứu ngẫu nhiên có kiểm soát nào được thực hiện, một thực tế phải được tính đến khi thảo luận về dữ liệu dịch tễ học, tiêu chuẩn chẩn đoán và khuyến cáo điều trị.
Các thuật ngữ khác
- reversible posterior leukoencephalopathy
- reversible posterior cerebral edema syndrome
- reversible occipital parietal encephalopathy
- potentially reversible encephalopathy syndrome

Sinh lý bệnh và căn nguyên
Có hai giả thuyết hàng đầu liên quan đến sinh lý bệnh học của PRES.
Giả thuyết đầu tiên đề xuất tăng huyết áp động mạch nhanh chóng lên đến cơn tăng huyết áp hoặc tăng huyết áp cấp cứu được quan sát thấy ở phần lớn bệnh nhân khởi phát PRES. Theo giả thuyết này, việc tăng huyết áp trên mức giới hạn tự điều hòa trên dẫn đến tăng áp lực tưới máu não, có thể gây rò rỉ mạch máu và phù mạch. Tăng áp lực tưới máu não góp phần làm rối loạn chức năng hàng rào máu não gây thoát mạch huyết tương và các đại phân tử qua các protein liên kết chặt chẽ (tight junction proteins). Tự điều hoà mạch máu não được cho là để bảo tồn lưu lượng máu não liên tục độc lập với dao động huyết áp hệ thống. Sự giãn mạch của các động mạch não trong giai đoạn hạ huyết áp. Ngược lại, trong tăng huyết áp dẫn đến co mạch máu não. Cơ chế thích nghi này chủ yếu được điều chỉnh bởi phản ứng áp suất và carbon dioxide, cũng như giải phóng các chất vận mạch (vasoactive) như nitric oxide, thromboxane A2 hoặc endothelin-1 từ nội mô mạch máu Ở những người khỏe mạnh, lưu luợng máu não liên tục có thể được duy trì giữa giới hạn tự điều hòa dưới và trên, thường áp lực tưới máu não (cerebral perfusion pressure) trong khoảng từ 50 đến 150 mmHg. Nhiều điều kiện khác như tăng huyết áp động mạch, các dao động huyết áp cấp tính hoặc hoạt động thần kinh tự động có thể gây ra những thay đổi ngưỡng tự điều hòa này. Điều này có thể làm gia tăng tổn thương của tuần hoàn não và dẫn đến thiếu máu não trong thời gian hạ huyết áp, hoặc tăng tươi máu não và rò rỉ mạch máu khi huyết áp tăng cao hơn giới hạn tự điều hòa trên. Giả thuyết ‘‘hyperperfusion theory’’, được ủng hộ bởi các ghi nhận tăng huyết áp hoặc huyết áp dao động, hoặc cơn tăng huyết áp ở phần lớn bệnh nhân PRES khi khởi phát bệnh. Các khu vực sau của bán cầu não đặc biệt nhạy cảm trên lâm sàng cũng như hình ảnh. Điều này có thể giải thích do giảm mật độ phân bố thần kinh giao cảm ở phía sau não so với trước, tuần hoàn trễ hơn có sự phân bố nhiều hơn bởi hạch giao cảm cổ trên. Điều này có thể ngăn ngừa sự giãn mạch quá mức, có thể làm giảm nguy cơ tăng tưới máu não ở những khu vực này so với các khu vực sau. Tuy nhiên, lập luận chống lại giả thuyết này là khoảng 30% bệnh nhân mắc PRES huyết áp bình thường hoặc chỉ tăng nhẹ không nhất thiết vượt quá giới hạn tự điều hòa trên bình thường như mong đợi trong bối cảnh tăng tưới máu não. Do đó, lý thuyết về các đợt tăng huyết áp và tăng tưới máu não là tình trạng bệnh lý cơ bản trong PRES vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi.
Giả thuyết thứ hai liên quan đến nguyên nhân của PRES là hội chứng được kích hoạt bởi rối loạn chức năng nội mô do các độc tố nội sinh hoặc ngoại sinh lưu hành. Lập luận cho giả thuyết này, PRES thường được quan sát thấy ở những bệnh nhân bị tiền hay sản giật, nhiễm trùng huyết hoặc điều trị với các thuốc ức chế miễn dịch hoặc thuốc gây độc tế bào. Yếu tố phổ biến trong các tình trạng khác nhau này là sự hiện diện của độc tố nội sinh (tiền hay sản giật, nhiễm trùng huyết) hoặc ngoại sinh (hóa trị liệu, thuốc ức chế miễn dịch) gây ra rối loạn chức năng nội mô. Một trong những tính năng chính của nội mô mạch máu là bảo tồn tính toàn vẹn của mạch bằng các phân tử kết dính giữa các nội mô. Các độc tố lưu hành có thể kích hoạt rò rỉ mạch máu và hình thành phù nề, ngoài ra kích hoạt nội mô dẫn đến việc giải phóng các chất gây miễn dịch và vận mạch. Các chất co mạch được giải phóng bởi các tế bào nội mô mạch máu được cho là trung gian co thắt mạch máu não, thường được quan sát thấy ở bệnh nhân PRES. Trong giả thuyết độc tố này, tăng huyết áp xảy ra do hậu quả của rối loạn chức năng nội mô nguyên phát. Một biến thể của giả thuyết miễn dịch/độc tố là sự giải phóng quá mức các pro-inflammatory cytokines dẫn đến kích hoạt nội mô, giải phóng các tác nhân vận mạch, tăng tính thấm thành mạch và hình thành phù nề. Cơ chế này được coi là nguyên nhân chính gây ra PRES ở bệnh nhân rối loạn tự miễn hoặc nhiễm trùng huyết. (A) Điều kiện sinh lý của hàng rào máu não
Ngoài tăng huyết áp động mạch, một loạt các điều kiện có liên quan đến chẩn đoán PRES. Căn nguyên có thể là đa dạng; tuy nhiên, mối tương quan rõ ràng giữa các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng, vị trí tổn thương hoặc các yếu tố kích hoạt cụ thể đã không được quan sát. PRES đã được báo cáo thường xuyên ở những bệnh nhân dùng thuốc ức chế miễn dịch sau khi ghép tạng, tủy xương hoặc ghép tế bào gốc. Tỷ lệ mắc PRES sau ghép tạng được báo cáo là từ 0,4 đến 6%, trong khi 8% bệnh nhân sau ghép tủy xương có thể bị ảnh hưởng. So với thuốc ức chế miễn dịch ghép tạng rắn thường được dùng với liều cao hơn với ghép tủy xương hoặc tế bào gốc, có thể giải thích tỷ lệ mắc PRES cao hơn sau ghép tạng không rắn (nonsolid organ transplantation). Tuy nhiên, không rõ liệu PRES có liên quan đến liều của các tác nhân gây bệnh hay không.
Lâm sàng
PRES đặc trưng là một loạt các triệu chứng thần kinh, thường đi cùng với tăng huyết áp động mạch. Khởi phát có thể là cấp tính hoặc bán cấp, với các triệu chứng phát triển trong vòng vài giờ cho đến vài ngày hoặc thậm chí vài tuần. Bệnh nhân có thể có các dấu hiệu của bệnh não bao gồm rối loạn về ý thức, lơ mơ hoặc hôn mê. Động kinh khu trú cũng như toàn thể rất phổ biến, khoảng hai phần ba trong tất cả các bệnh nhân. Khoảng 3 đến 13% các trường hợp động kinh có thể trạng thái động kinh, đây là một trong những biến chứng nghiêm trọng nhất và có khả năng đe dọa tính mạng của PRES. Liên quan thường xuyên đến thùy chẩm, các rối loạn thị giác như giảm thị lực, thị trường bao gồm bán manh và mù vỏ não hoặc ảo giác thị giác có thể được quan sát thấy ở khoảng 2/3 trong số tất cả các bệnh nhân PRES. Các triệu chứng thần kinh ít đặc hiệu hơn bao gồm đau đầu, buồn nôn, nôn và rối loạn ý thức.
Chẩn đoán
Các tiêu chuẩn chẩn đoán cho đến nay vẫn còn thiếu và chẩn đoán lâm sàng cũng như hình ảnh thường không chuyên biệt. Do đó, chẩn đoán PRES thường chỉ có thể được thực hiện sau khi loại trừ các chẩn đoán quan trọng khác. Sự hiện diện triệu chứng thần kinh khởi phát cấp tính, đồng thời huyết áp dao động, phù mạch máu trên hình ảnh thần kinh và bệnh lý kết hợp hay yếu tố kích hoạt gợi ý PRES. Fugate và cộng sự đề nghị tiêu chuẩn chẩn đoán PRES: triệu chứng thần kinh khởi phát cấp tính, hình ảnh thần kinh phù mạch máu khu trú và hồi phục lâm sàng và/hay hình ảnh. Chẩn đoán hình ảnh đặc biệt MRI là chẩn đoán quan trọng.
Cận lâm sàng
- Điện não đồ (EEG) có thể cần thiết để phát hiện các cơn động kinh (không co giật), trạng thái động kinh và cũng có thể giúp đánh giá bệnh não.
- Chọc dò thắt lưng có tầm quan trọng lớn để loại trừ viêm não hoặc viêm màng não ở những bệnh nhân mắc bệnh ung thư máu (hemato-oncological). Tuy nhiên, những thay đổi bệnh lý ở dịch não tủy chỉ định PRES không được ghi nhận. Nồng độ albumin DNT tăng cao và chỉ số albumin DNT / huyết thanh tăng cao, biểu hiện của sự gián đoạn hàng rào máu não đã được báo cáo ở một loạt 87 bệnh nhân, trong khi tăng tế bào (pleocytosis) hiếm gặp. Điều này phù hợp với đánh giá hồi cứu 73 bệnh nhân PRES chọc dò thắc lưng. Phân ly nhẹ đạm tế bào được tìm thấy ở tất cả các bệnh nhân có mức protein trung bình là 58 mg / dl.
- MRI nhạy hơn với tổn thương tăng tín hiệu trên T2, FLAIR. Các tổn thương MRI phản ảnh phù nề mạch máu thường vùng đỉnh chẩm. Mặc dù ở hai bán cầu, các tổn thương có thể được phân phối không đối xứng. Do mật độ thấp hơn của chất trắng, chủ yếu các khu vực dưới vỏ bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, sự liên quan vỏ não cũng đã được mô tả. Trong khi phân bố đỉnh chẩm xảy ra ở khoảng 70% của tất cả các bệnh nhân, hồi trán hay vùng giáp ranh(watershed pattern) cũng thường thấy. Các tổn thương ở các khu vực khác như tiểu não, thân não, hạch nền hoặc tủy sống ít phổ biến hơn. Mặc dù hiếm gặp, bất thường khuếch tán có thể tìm thấy những tổn thương nhỏ được bao quanh bởi các vùng phù nề. Sự hạn chế khuếch tán các khu vực lớn hơn có thể là dấu hiệu đột quỵ thiếu máu cục bộ. sư gia tăng hệ số khuếch tán (apparent diffusion coefficient, ADC) trên DWI là đặc trưng và phù nề do phù mạch. Hình ảnh ADC có thể liên quan đến tiên lượng: giá trị cao hơn có liên quan đến khả năng đảo ngược của tổn thương. Ngược lại, các giá trị ADC suy yếu cho thấy thiếu máu não và kết cục kinh xấu.
- Các nghiên cứu hình ảnh về tưới máu não (cerebral perfusion) ở bệnh nhân PRES báo cáo kết quả mâu thuẩn. Tăng tưới máu đã được quan sát thấy ở các khu vực phù nề, củng cố giả thuyết về tăng tưới máu não khi huyết áp vượt quá giới hạn trên của tự điều hòa não. Ngược lại, chụp cắt lớp phát xạ đơn photon (SPECT) và MR tưới máu cho thấy giảm tưới máu não ở các vùng tổn thương trong PRES do nhiều nguyên nhân khác nhau. Các kiểu tưới máu khác nhau trong PRES có thể được giải thích bằng sự đa dạng về căn nguyên, gây ra nhiều đáp ứng sinh lý bệnh
Chẩn đoán phân biệt
Hội chứng co mạch não có hồi phục (Reversible cerebral vasoconstriction syndrome - RCVS) Một trong những chẩn đoán phân biệt quan trọng của PRES là RCVS. Cả hai điều kiện đều có những dấu hiệu lâm sàng và chụp động mạch tương tự nhau. Điều thú vị là các tổn thương giống PRES đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân RCVS, cho thấy cả hai có thể gây ra các biểu hiện khác nhau của cùng một bệnh lý. Các triệu chứng của RCVS: các cơn đau đầu dữ dội và đột ngột xuất hiện ở tất cả các bệnh nhân. Các triệu chứng khác có thể bao gồm: đột quỵ nhẹ hoặc các cơn thiếu máu não thoáng qua, liệt, vấn đề thị lực, động kinh. RCVS là một tình trạng hiếm gặp xảy ra do co thắt đột ngột các mạch cung cấp máu cho não, có thể đảo ngược, từ phục hồi hoàn toàn ở hầu hết bệnh nhân đến tổn thương não vĩnh viễn. RCVS gặp phổ biến nhất ở phụ nữ từ 20 đến 50 tuổi. Một số yếu tố bên ngoài có thể liên quan đến RCVS bao gồm việc sử dụng thuốc theo toa, thuốc không kê đơn hoặc thuốc bất hợp pháp có thể gây co thắt động mạch. RCVS cũng có thể được liên kết với các yếu tố bên trong như khối u, tiết ra các chất làm co mạch máu.

Điều trị Điều trị triệu chứng, hiện tại không có chiến lược điều trị cụ thể nào. Việc quản lý bệnh cơ sở hoặc bệnh lý dẫn đến phát triển PRES có tầm quan trọng. Điều trị các đợt tăng huyết áp và duy trì huyết áp bình thường là một phần thiết yếu của điều trị PRES. Tuy nhiên, dựa trên các nghiên cứu tiền cứu có kiểm soát, không có bằng chứng kiểm soát huyết áp nghiêm ngặt sẽ hạn chế tổn thương thần kinh, hoặc dẫn đến sự rút lui lâm sàng hoặc hình ảnh. Việc lựa chọn thuốc hạ huyết áp thực sự trên cơ sở khuyến cáo chung điều trị cơn tăng huyết áp hay tăng huyết áp cấp cứu. Nên giảm mức huyết áp 25% so với giá trị cơ bản. Cũng như các điều kiện khác, huyết áp dao động nên tránh và sử dụng thuốc hạ huyết áp liên tục theo dõi huyết động học sẽ được xem xét. Điều trị chống co giật thường xuyên được đòi hỏi. Không có khuyến cáo chung cho việc sử dụng các loại thuốc cụ thể. Hơn nữa, thời gian điều trị thuốc chống động kinh tối ưu là không rõ ràng. Thông thường, thuốc chống co giật có thể giảm dần ngay khi bệnh nhân không có triệu chứng và các tổn thương hình ảnh đã hoàn toàn đảo ngược.
Xem xét các bệnh nhân mắc PRES liên quan đến bệnh lupus ban đỏ hệ thống, hoạt động bệnh được tìm thấy khi khởi đầu và điều trị tăng cường ức chế miễn dịch kiểm soát các biểu hiện thần kinh. Do thực tế nồng độ magnesium giảm ở một số lượng lớn bệnh nhân mắc PRES, cùng với tác dụng chống co giật và giãn mạch, nên tránh hypomagnesemia và duy trì nồng độ trong huyết thanh ở mức bình thường cao. Trong trường hợp co thắt mạch máu não hoặc co mạch máu não (cerebral vasospasm or cerebral vasoconstriction), điều trị co thắt mạch máu (bằng hệ thống hoặc, nếu cần, thông qua điều trị calcium antagonists động mạch cục bộ) có thể được bắt đầu ở giai đoạn đầu
Dự hậu và kết cục
Tiên lượng của PRES chủ yếu được xác định bởi bệnh lý cơ bản, vì các biểu hiện thần kinh có thể đảo ngược ở phần lớn bệnh nhân. Tuy nhiên, vì PRES thường đi kèm với các biến chứng nghiêm trọng, di chứng thần kinh có thể tồn tại. Trong một đánh giá hồi cứu (retrospective chart review) gần đây, kết cục thần kinh xấu được xác định bằng thang điểm Rankin sửa đổi từ 2 đến 6 điểm, được báo cáo ở 36% trong tổng số bệnh nhân khi xuất viện. Các tác giả nhận thấy rằng tiền căn đái tháo đường và PRES liên quan tổn thương thể chai (corpus callosum ) là những yếu tố dự báo mạnh kết cục xấu. Singer và cộng sự quan sát thấy các triệu chứng thần kinh khỏi hoàn toàn là 84% ở bệnh nhân ung thư mắc PRES . Trong 81% các trường hợp, các hình ảnh thần kinh có thể đảo ngược khi chụp MRI hoặc CT theo dõi. Tỷ lệ tử vong trong đoàn hệ được báo cáo là 19%. Tuy nhiên, không có chết liên quan trực tiếp đến PRES. Khi xem xét 111 trường hợp nhi mắc bệnh huyết học, 19 bệnh nhân (17%) chết liên quan đến PRES. Di chứng thần kinh bao gồm động kinh, thiếu hụt vận động và giãn đồng tử được quan sát thấy ở 17 bệnh nhân khác. Heo và các cộng sự khảo sát 102 trường hợp PRES và tìm thấy chứng động kinh kéo dài ở bốn bệnh nhân. Ngược lại, Kastrup và cộng sự mô tả một cohort gồm 49 bệnh nhân, 38 trong số họ có biểu hiện co giật trong giai đoạn cấp tính, theo dõi không có bệnh nhân nào bị động kinh kéo dài. Cho đến nay, các yếu tố như dấu ấn huyết thanh, DNT hoặc hình ảnh thần kinh trong PRES vẫn chưa được xác định là hữu ích trong phân tầng nguy cơ của bệnh nhân cũng như là thước đo mức độ phù hợp cho tiên lượng. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu gần đây của Karia và cộng sự, mức độ nghiêm trọng của hình ảnh MR tương quan với kết cục lâm sàng ở 135 bệnh nhân
Định hướng tương lai
Mặc dù nhiều báo cáo trường hợp và nghiên cứu quan sát đã được công bố kể từ mô tả đầu tiên vào năm 1996, nhiều khía cạnh của PRES, đặc biệt là về sinh lý bệnh và điều trị, vẫn chưa rõ ràng.
Tóm lại, các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng liên quan đến PRES và các tổn thương thần kinh có thể hồi phục ở phần lớn bệnh nhân. Tiên lượng chủ yếu được xác định bởi bệnh lý cơ bản. Tuy nhiên, di chứng thần kinh, đặc biệt là động kinh, có thể tồn tại trong từng trường hợp riêng lẻ và cần điều trị lâu dài. Cho đến nay, các yếu tố tiên lượng cụ thể vẫn chưa được xác định. Mức độ nghiêm trọng của các tổn thương hình ảnh MR bao gồm các giá trị ADC có thể là một thông số quan trọng quyết định tiên lượng lâu dài.
Kết luận
PRES là một hội chứng lâm sàng x quang (clinicoradiological syndrome), các triệu chứng và dấu hiệu của nó phát triển trong nhiều giờ. Sự kết hợp của các cơn động kinh, rối loạn thị lực, thay đổi chức năng tâm thần và đau đầu. MRI là tiêu chuẩn vàng chẩn đoán. Có sự chiếm ưu thế của chất trắng vùng chẩm của cả hai bán cầu. Các tổn thương PRES điển hình trên MRI là phù mạch máu Có nhiều yếu tố kích hoạt khác nhau, phổ biến nhất là tăng huyết áp đột ngột, suy thận, điều trị ức chế miễn dịch, sản giật, bệnh tự miễn và nhiễm trùng. Tiên lượng tốt và tái phát hiếm gặp, các triệu chứng thường khỏi trong vòng một tuần lễ, tổn thương trên MRI bớt chậm hơn Điều trị bao gồm thuốc hạ huyết áp, ngưng thuốc như hóa trị và điều trị bệnh cơ sở.
Tài liệu tham khảo
1. Hinchey J, Chaves C, Appignani B, et al.( 1996) A reversible posterior leukoencephalopathy syndrome. N Engl J Med.;334:494-500.
2. Kevin G. Lazo, Steven Mandel, Bidyut Pramanik, Jane Lee, Maria V. Devita, David Coven, and Sandra Gelbard.(2016). Posterior Reversible Encephalopathy Syndrome (PRES): A Case Report and Review of the Literature. Practical Neurology.
3. Fischer, M., & Schmutzhard, E. (2017). Posterior reversible encephalopathy syndrome. Journal of Neurology, 264(8), 1608–1616.
4. Jennifer E Fugate, Alejandro A Rabinstein. (2015). Posterior reversible encephalopathy syndrome: clinical and radiological manifestations, pathophysiology, and outstanding questions. Lancet Neurol; 14: 914–25
5. Singhal AB. Posterior Reversible Encephalopathy Syndrome and Reversible Cerebral Vasoconstriction Syndrome as Syndromes of Cerebrovascular Dysregulation. Continuum (Minneap Minn). 2021;27(5):1301-1320. doi:10.1212/CON.0000000000001037

Nhân dịp kỷ niệm Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2, Khoa Gây Mê Hồi Sức Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An xin gửi lời tri ân sâu sắc...
27/02/2025

Nhân dịp kỷ niệm Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2, Khoa Gây Mê Hồi Sức Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An xin gửi lời tri ân sâu sắc đến tất cả các đồng nghiệp, những người đã và đang cống hiến hết mình cho sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Hòa chung không khí thiêng liêng và tự hào của ngày truyền thống ngành y, Khoa Gây Mê Hồi Sức Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An đã tổ chức buổi sinh hoạt khoa học với chủ đề: "Vinbetocin trong dự phòng băng huyết sau sinh". Đây là một trong những chủ đề quan trọng, cấp thiết, được các bác sĩ, điều dưỡng trong khoa đặc biệt quan tâm.
Băng huyết sau sinh là một trong những tai biến sản khoa nguy hiểm, có thể gây tử vong cho sản phụ. Việc cập nhật kiến thức, nâng cao kỹ năng dự phòng và xử trí băng huyết sau sinh là vô cùng cần thiết. Trong buổi sinh hoạt khoa học, các bác sĩ đã cùng nhau thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm về việc sử dụng Vinbetocin - một loại thuốc mới, có hiệu quả cao trong dự phòng băng huyết sau sinh.
Buổi sinh hoạt khoa học đã diễn ra thành công tốt đẹp, cung cấp nhiều kiến thức bổ ích cho các bác sĩ, điều dưỡng trong khoa. Đây là hoạt động thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng chuyên môn, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Khoa Gây Mê Hồi Sức Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An cam kết sẽ không ngừng nỗ lực, học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất vào công tác khám chữa bệnh, mang lại sự hài lòng và tin tưởng cho người bệnh.

Vinphaco Jsc

💐CHÚC MỪNG NGÀY THẦY THUỐC VIỆT NAM 27/2💐💐💐💐 Ngày 27/02 có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với mỗi con người Việt Nam, đây là...
26/02/2025

💐CHÚC MỪNG NGÀY THẦY THUỐC VIỆT NAM 27/2💐
💐💐💐 Ngày 27/02 có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với mỗi con người Việt Nam, đây là ngày để mọi người dân Việt Nam thể hiện sự kính trọng, sự biết ơn của mình đến các y, bác sĩ, những người đã dành hết sức lực và tài trí để cống hiến cho nước nhà. Và cũng là ngày để các y, bác sĩ cùng những người làm trong ngành Y Tế nhắc nhở bản thân nâng cao tinh thần trách nhiệm, tận tụy phục vụ, hết lòng thương yêu chăm sóc người bệnh, xem nỗi đau của bệnh nhân như của chính mình như lời chủ tịch Hồ Chí Minh có dạy: " Lương y như từ mẫu" để xứng đáng với Tổ quốc.💖
💖Nhân dịp Kỷ niệm 70 năm ngày Thầy thuốc Việt Nam- một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của nền y học Việt Nam, xin kính chúc các y, bác sĩ, điều dưỡng viên, nhân viên y tế luôn dồi dào sức khỏe, tiếp tục cống hiến, giữ vững tinh thần "lương y như từ mẫu"!
💖Xin chân thành cảm ơn người bệnh, người nhà người bệnh đã đồng hành, tin tưởng chúng tôi!!

Gây mê hồi sức trong đặt điện cực thượng tâm mạc cho trẻ sơ sinh đẻ non tháng 2.200kg. Trẻ phát hiện block nhĩ thất từ t...
03/12/2024

Gây mê hồi sức trong đặt điện cực thượng tâm mạc cho trẻ sơ sinh đẻ non tháng 2.200kg.
Trẻ phát hiện block nhĩ thất từ tuần thai 23. Sau sinh trẻ có cơn tím, nhịp chậm 45-55 lần / phút.
Vào khoa Hồi sức sơ sinh đã được hội chẩn toàn viện từ các khoa: Nội tim mạch, ngoại tim mạch, gây mê hồi sức, hồi sức ngoại khoa. Thống nhất dùng thuốc kích nhịp tim nhưng không thành công, trẻ được đặt tạo nhịp ngoài lồng ngực f 120ck/p bằng máy sốc điện.
Tuy nhiên, để chờ đợi đặt máy nhịp vĩnh viễn, trẻ cần được đặt máy tạo nhịp thượng tâm mạc.
Với trẻ sơ sinh nhịp tim chậm sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới huyết động trong can thiệp. Quá trình GMHS cần được chuẩn bị máy sốc điện, thuốc vận mạch, máy tạo nhịp luôn sẵn sàng.
Với ekip phẫu thuật tim mạch đã nhanh chóng đặt thành công máy tạo nhịp thượng tâm mạc với f 130ck/p, V output 5mA, A output 0mA. Trẻ đã ổn định được huyết động HATB 40-50 mmHg, SpO2 99%.
Sau đó trẻ được chuyển về khoa Hsss để được tiếp tục theo dõi và hồi sức.
Vừa qua Bv Sản Nhi Nghệ An đã điều trị thành công nhiều trường hợp trẻ sơ sinh bị loạn nhịp, một trong những lĩnh vực chuyên môn rất khó của Nhi khoa.

Điều dưỡng là những người thường đứng sau cái bóng của bác sỹ. Nhưng là bác sỹ, chúng tôi hiểu được: chính điều dưỡng mớ...
26/10/2024

Điều dưỡng là những người thường đứng sau cái bóng của bác sỹ. Nhưng là bác sỹ, chúng tôi hiểu được: chính điều dưỡng mới là người trực tiếp chăm sóc người bệnh về cả tinh thần và thể xác. Nên áp lực với các bạn luôn không hề nhỏ. Đặc biệt là điều dưỡng GMHS, các bạn chính là những người gần với tính mạng người bệnh nhất, áp lực cao nhất. Chúc cho các bạn điều dưỡng luôn xinh tươi, mạnh khỏe, yêu đời và chăm sóc tốt không chỉ cho người bệnh mà cho cả các bác sỹ chúng tôi. Chúc mừng Ngày Điều dưỡng Việt Nam!

Ngày 16/10/1846, Nha sĩ William T. G. Morton là người đầu tiên sử dụng ether thành công để gây mê trong một ca phẫu thuậ...
16/10/2024

Ngày 16/10/1846, Nha sĩ William T. G. Morton là người đầu tiên sử dụng ether thành công để gây mê trong một ca phẫu thuật lấy khối u ở cổ cho bệnh nhân. Ca phẫu thuật này được thực hiện tại Bệnh viện Đa khoa Massachussets, tiền thân của Trường Y Đại học Harvard, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử Y khoa. Từ đó, ngày 16/10 hàng năm được chọn làm Ngày Gây mê Thế giới, hay còn gọi là "Ether day".

Ngày Gây mê Thế giới là một ngày mang ý nghĩa vô cùng quan trọng, ghi dấu cột mốc sự tiến bộ của khoa học đã có thể kiểm soát được nỗi đau, giúp bệnh nhân không phải chịu đau đớn trong phẫu thuật, đồng thời đảm bảo điều kiện lý tưởng để các bác sĩ có thể thao tác chuẩn xác. Một trong những điều kiện để ca mổ an toàn và thành công là các bác sĩ, kỹ thuật viên chuyên ngành gây mê hồi sức phải giàu kinh nghiệm, nắm rõ tình hình bệnh nhân cũng như phối hợp nhịp nhàng với bác sĩ phẫu thuật.

Nhân dịp này, Khoa Gây mê hồi sức kính chúc các bác sĩ, kỹ thuật viên và các nhân viên làm công tác gây mê hồi sức nhiều sức khoẻ và tiếp tục phát huy vai trò không thể thiếu của mình trong quy trình điều trị phẫu thuật cho người bệnh.

Khoa Gây mê hồi sức - Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An ngoài việc đáp ứng công tác Gây mê hồi sức cho phẫu thuật, công tác hồi sức, giảm đau sau mổ, khoa Gây mê hồi sức còn phối hợp tích cực cùng các khoa lâm sàng trong thực hiện các thủ thuật gây mê, trừ đau trong toàn bệnh viện: Kỹ thuật tê NMC giảm đau trong đẻ, sau mổ, gây mê nội soi tiêu hóa, hô hấp, gây mê thực hiện các thủ thuật phụ khoa,…

Những năm gần đây, khoa Gây mê hồi sức tăng cường đẩy mạnh phát triển các dịch vụ kỹ thuật, tăng cường công tác gây mê hồi sức trong thực hiện phẫu thuật khó như mổ tim bẩm sinh có CEC; phẫu thuật các bệnh lí trẻ sơ sinh, Sản khoa
Trước khi mổ, người bệnh được khám sàng lọc, người bệnh và người nhà người bệnh đều được hướng dẫn chi tiết về quá trình gây mê. Trong quá trình mổ, bác sĩ gây mê thực hiện việc theo dõi sát sao nhịp tim, huyết áp, bão hòa oxy, nhịp thở…; điều chỉnh máy móc, phương tiện hỗ trợ để đảm bảo an toàn cho người bệnh trong suốt ca phẫu thuật. Khi ca mổ kết thúc, các bác sĩ phẫu thuật đã hoàn thành xong công tác phẫu thuật, các bác sĩ gây mê hồi sức sẽ tiếp tục công tác hồi sức sau mổ và trừ đau cho người bệnh, đảm bảo an toàn cho tới khi đủ diều kiện chuyển lại bệnh phòng.

Mặc dù công việc ở phòng mổ rất áp lực, nhưng với khẩu hiệu “Gây mê vững vàng, an toàn phẫu thuật ” các y bác sĩ, kỹ thuật viên, điều dưỡng và nhân viên y tế tại Khoa Gây mê hồi sức – Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An đều đồng lòng hướng tới mục tiêu chung là đem đến sự an toàn tối đa dành cho người bệnh. Và khi phẫu thuật thành công, người bệnh hồi phục an toàn là niềm hạnh phúc quý giá đối với tất cả y bác sĩ.

Khoa Gây mê Hồi sức Bệnh Viện Sản Nhi Nghệ An

Qua những tháng đỉnh điểm của mùa phẫu thuật. Để giải toả tất cả những áp lực và căng thẳng trong công việc, gắn kết hơn...
12/08/2024

Qua những tháng đỉnh điểm của mùa phẫu thuật. Để giải toả tất cả những áp lực và căng thẳng trong công việc, gắn kết hơn nữa tình cảm các đoàn viên cũng như các gia đình trong khoa. Với khẩu hiệu " Làm hết sức và chơi hết mình "
Hai tua du lịch vui chơi của Công đoàn khoa tổ chức đã mang lại nhiều niềm vui, trải nghiệm, tinh thần phấn chấn cho các Y Bác sĩ để trở lại guồng quay công việc hàng ngày. Tiếp tục công tác chuyên môn phục vụ cho sức khoẻ của người bệnh.

Một trong những hoạt động của kế hoạch Khoa với công tác chỉ đạo tuyến mà Khoa Gây Mê - Hồi Sức . Bệnh Viện Sản Nhi Nghệ...
07/06/2024

Một trong những hoạt động của kế hoạch Khoa với công tác chỉ đạo tuyến mà Khoa Gây Mê - Hồi Sức . Bệnh Viện Sản Nhi Nghệ An luôn chú tâm và coi trọng.

Nhân ngày Quốc tế Điều dưỡng 12/05/2024, Khoa Gây Mê Hồi Sức xin gửi tới Tập thể anh chị em Điều dưỡng nói chung cũng...
12/05/2024

Nhân ngày Quốc tế Điều dưỡng 12/05/2024, Khoa Gây Mê Hồi Sức xin gửi tới Tập thể anh chị em Điều dưỡng nói chung cũng như các anh chị em Kỹ thuật viên, Dụng cụ viên khoa Gây Mê Hồi Sức nói riêng lời chúc mừng, lời tri ân sâu sắc nhất cho những cống hiến, hy sinh thầm lặng mình. Đặc biệt là điều dưỡng viên chuyên nghành Gây mê hồi sức của mình.
Luôn chúc các anh chị em ngày lễ vui vẻ, luôn mạnh khỏe, giữ mãi ngọn lửa đam mê với nghề và hoàn thành tốt nhiệm vụ
Luôn sẵn sàng với tiêu chí “ Gây mê an toàn, vững vàng phẫu thuật “

1. Phân loại nội soi tiêu hoá ở trẻ em1.1. Nội soi đường tiêu hoá không gây mêTrẻ thường khó chịu, giãy giụa, không hợp ...
09/05/2024

1. Phân loại nội soi tiêu hoá ở trẻ em
1.1. Nội soi đường tiêu hoá không gây mê
Trẻ thường khó chịu, giãy giụa, không hợp tác trong quá trình nội soi dạ dày, điều này dễ làm xây xác đường tiêu hóa, khiến trẻ đau bụng, thậm chí là chảy máu niêm mạc tiêu hóa.
1.2. Nội soi đườn tiêu hóa gây mê
Việc gây mê giúp cho việc nội soi dạ dày ở trẻ em, nhất là những trẻ nhỏ tuổi
- Trẻ không đau, không kích thích khó chịu
- Thao tác nhanh chóng, an toàn
- Phát hiện chính xác hơn các bệnh lí về đường tiêu hóa
Tuy nhiên, cần được thực hiện ở cơ sở y tế uy tín, bởi vì cơ địa trẻ em nhạy cảm và dễ phản ứng với thuốc mê hơn người lớn, bác sĩ gây mê sẽ phải thăm khám lâm sàng và tính toán liều lượng thuốc mê kỹ lưỡng trước khi tiến hành gây mê cho trẻ, nhằm giảm đến mức tối đa các tác dụng phụ không mong muốn hay biến chứng của thuốc mê trong và sau nội soi dạ dày cho trẻ.
2. Một số lưu ý
- Trẻ sẽ phải nhịn ăn uống trước nội soi ít nhất 6 tiếng
- Nhịn hoàn toàn (kể cả uống nước) : 2 giờ trước nội soi
- Trẻ được thụt tháo theo y lệnh của Bác sĩ khi soi đường tiêu hóa dưới
3. Trẻ cần được theo dõi sau nội soi gây mê như thế nào?
Trong vòng 24 giờ sau nội soi,trẻ cần được nghỉ ngơi hoàn toàn tại nhà.
Không cho trẻ tham gia các hoạt động như đi xe đạp, bơi lội, sử dụng vật dụng sắc nhọn trong 24 giờ sau nội soi.
Báo ngay cho bác sĩ nếu có bất thường.

Address

Vinh

Telephone

+84913487229

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Khoa Gây Mê - Hồi Sức . Bệnh Viện Sản Nhi Nghệ An posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Practice

Send a message to Khoa Gây Mê - Hồi Sức . Bệnh Viện Sản Nhi Nghệ An:

Share