02/08/2025
💊 Tăng Huyết áp thai kỳ và Tiền sản giật - Hướng dẫn lâm sàng!
💊💊
Một trong những nguyên nhân chính gây tử vong mẹ và tử vong trẻ sơ sinh trên toàn cầu là rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ.1 Khoảng 2-8% các trường hợp mang thai trên toàn thế giới bị biến chứng do tiền sản giật và 16% trường hợp tử vong mẹ là do rối loạn tăng huyết áp.1
Tiền sản giật là một rối loạn của thai kỳ liên quan đến tăng huyết áp mới khởi phát. Nó thường xảy ra sau 20 tuần tuổi thai và thường là gần ngày sinh. Nó thường có thể đi kèm với protein niệu mới khởi phát, nhưng tăng huyết áp và các dấu hiệu và triệu chứng khác của tiền sản giật cũng có thể xuất hiện mà không kèm protein niệu. Các yếu tố nguy cơ đã biết của tiền sản giật bao gồm vô thai, đa thai, tuổi mẹ từ 35 tuổi trở lên, chỉ số khối cơ thể trước khi mang thai > 30, tăng huyết áp mãn tính, đái tháo đường trước và trong thai kỳ. Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp tiền sản giật đều xảy ra ở những phụ nữ chưa sinh đẻ, khỏe mạnh và không có yếu tố rủi ro.1
Mặt khác, tăng huyết áp thai kỳ là hiện tượng huyết áp tâm thu ≥140 mmHg hoặc huyết áp tâm trương ≥90 mmHg, hoặc cả hai, được đo trong 2 lần cách nhau ít nhất 4 giờ ở một phụ nữ mang thai 20 tuần trở lên trước đó có huyết áp bình thường1
Bảng 1 cho thấy các tiêu chí chẩn đoán tiền sản giật.
Bảng 1. Các tiêu chí chẩn đoán Tiền sản giật1
Bảng 2 cho thấy các tác nhân hạ huyết áp khác nhau có thể được sử dụng để kiểm soát huyết áp khẩn cấp trong thai kỳ.
Bảng 2. Các tác nhân hạ huyết áp được sử dụng để kiểm soát huyết áp khẩn cấp trong thai kỳ1
Dưới đây là bản tóm tắt các khuyến nghị từ các tạp chí chuyên môn1:
Các khuyến nghị sau đây dựa trên các bằng chứng khoa học hợp lý và liên quan chặt chẽ (Mức A):
Phụ nữ có bất kỳ yếu tố nguy cơ cao nào của tiền sản giật (lần mang thai trước bị tiền sản giật, đa thai, bệnh thận, bệnh tự miễn, đái tháo đường tuýp 1 hoặc tuýp 2 và cao huyết áp mãn tính) và những người mắc nhiều hơn một trong các Yếu tố nguy cơ (mang thai lần đầu, tuổi mẹ từ 35 tuổi trở lên, chỉ số khối cơ thể > 30, tiền sử gia đình bị tiền sản giật, đặc điểm xã hội học và các yếu tố tiền sử cá nhân) nên dùng aspirin liều thấp (81 mg/ngày) để dự phòng tiền sản giật , bắt đầu từ 12 tuần đến 28 tuần tuổi thai (tối ưu là trước 16 tuần tuổi thai) và tiếp tục cho đến khi sinh. Bảng 3 cho thấy các yếu tố nguy cơ lâm sàng và khuyến cáo về việc sử dụng aspirin.
Ở những phụ nữ bị tăng huyết áp thai kỳ hoặc tiền sản giật mà không có các biểu hiện nặng ở hoặc ngoài 37 0/7 tuần tuổi thai, khi chẩn đoán khuyến cáo nên cho sinh thay vì kéo dài thai kỳ.
Magiê sulfate nên được sử dụng để phòng ngừa và điều trị co giật ở phụ nữ bị tăng huyết áp thai kỳ và tiền sản giật với các biểu hiện nặng hoặc sản giật. Xem Bảng 4 về nồng độ magiê huyết thanh và độc tính.
Thuốc chống viêm không steroid nên tiếp tục được sử dụng ưu tiên hơn thuốc giảm đau opioid. Bệnh nhân hậu sản dùng magiê để điều trị dự phòng tiền sản giật không cho thấy sự khác biệt về huyết áp, yêu cầu hạ huyết áp, hoặc các tác dụng phụ khác đối với bệnh nhân được quản lý bằng NSAID trong thời kỳ hậu sản.
Bảng 3. Các yếu tố Rủi ro Lâm sàng* và Sử dụng Aspirin1
Bảng 4. Nồng độ Magiê huyết thanh và Độc tính1
Các khuyến nghị sau đây dựa trên các bằng chứng khoa học hạn chế và không liên quan chặt chẽ (Mức B):
Khuyến cáo cho sinh khi bị tăng huyết áp thai kỳ hoặc tiền sản giật với các đặc điểm nặng được chẩn đoán ở hoặc ngoài 34 0/7 tuần tuổi thai, sau khi mẹ ổn định hoặc chuyển dạ hoặc vỡ ối trước. Không được trì hoãn sinh để sử dụng thuốc steroid trong giai đoạn cuối sinh non.
Việc xử lý tiền sản giật với các biểu hiện nặng trước 34 0/7 tuần tuổi thai được dựa trên các tiêu chí lựa chọn nghiêm ngặt những bệnh nhân phù hợp và được thực hiện tốt nhất trong môi trường có các nguồn lực thích hợp cho chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh. Bởi vì quá trình quản lý thai kỳ thường có xu hướng hướng đến lợi ích cho trẻ sơ sinh mà chấp nhận rủi ro của người mẹ, cho nên không khuyến cáo tiếp thục thai kỳ khi không lường trước được khả năng sống sót của trẻ sơ sinh. Trong quá trình quản lý thai kỳ, khuyến cáo nên cho sinh bất cứ lúc nào trong trường hợp tình trạng của mẹ hoặc thai nhi xấu đi..
Điều trị hạ huyết áp nên được tiến hành nhanh chóng đối với tăng huyết áp nặng khởi phát cấp tính (huyết áp tâm thu ≥160 mmHg hoặc huyết áp tâm trương ≥110 mmHg, hoặc cả hai) được xác nhận là kéo dài (15 phút trở lên). Các tài liệu hiện có cho thấy rằng các thuốc hạ huyết áp nên được sử dụng trong vòng 30-60 phút. Tuy nhiên, nên tiến hành điều trị tăng huyết áp càng sớm càng tốt sau khi bệnh nhân đáp ứng các tiêu chuẩn về tăng huyết áp nặng khởi phát cấp tính.
Các khuyến nghị sau chủ yếu dựa trên sự đồng thuận và ý kiến chuyên gia (Mức C):
Khuyến cáo rằng phụ nữ bị tăng huyết áp thai kỳ trong trường hợp không thấy protein niệu được chẩn đoán là tiền sản giật nếu họ có bất kỳ đặc điểm nghiêm trọng nào sau đây::
Giảm tiểu cầu (số lượng tiểu cầu ít hơn 100 x 109/L)
Suy giảm chức năng gan do nồng độ men gan trong máu tăng cao bất thường (gấp đôi giới hạn trên của nồng độ bình thường)
Đau dữ dội, dai dẳng hạ sườn phải hoặc thượng vị và không xác định được bằng các chẩn đoán thay thế
Suy thận (nồng độ creatinin huyết thanh> 1,1 mg/dL hoặc tăng gấp đôi nồng độ creatinin huyết thanh nếu không có bệnh thận khác)
Phù phổi
Đau đầu mới khởi phát không phản ứng với acetaminophen và không xác định được bằng các chẩn đoán thay thế
Rối loạn thị giác
Phụ nữ bị tăng huyết áp thai kỳ có huyết áp ở mức nghiêm trọng nên được quản lý theo phương pháp tương tự như đối với phụ nữ bị tiền sản giật nặng.
Đối với phụ nữ bị tăng huyết áp thai kỳ hoặc tiền sản giật mà không có các biểu hiện nghiêm trọng, nên kéo dài thai kỳ đến 37 0/7 tuần tuổi thai, trong đó khuyến cáo đánh giá thai nhi và mẹ thường xuyên. Theo dõi thai nhi bao gồm siêu âm để xác định sự phát triển của thai nhi sau mỗi 3-4 tuần tuổi thai và đánh giá thể tích nước ối ít nhất một lần mỗi tuần. Ngoài ra, nên làm xét nghiệm tiền sản một đến hai lần mỗi tuần cho những bệnh nhân bị tăng huyết áp thai kỳ hoặc tiền sản giật mà không có các biểu hiện nặng.
Gây tê ngoài màng cứng hoặc tủy sống được xem là chấp nhận được, và nguy cơ tụ máu ngoài màng cứng là rất thấp ở những bệnh nhân có số lượng tiểu cầu 70 x 109/L trở lên với điều kiện mức tiểu cầu ổn định, không có rối loạn đông máu mắc phải hoặc bẩm sinh khác, chức năng tiểu cầu vẫn bình thường và bệnh nhân không đang điều trị bằng thuốc kháng tiểu cầu hoặc thuốc chống đông máu.
Tài liệu tham khảo:
Gestational hypertension and preeclampsia. ACOG Practice Bulletin No. 222. American College of Obstetricians and Gynecologists. Obstet Gynecol 2020;135:e237–60. doi: http://dx.doi.org/10.1097/AOG.0000000000003891